Thursday, June 16, 2016

Đạo Của Trời Đất

Quy luật của đất trời và tự nhiên
Nguồn: vietsciences.free.fr
nguyenhatn2004@gmail.com

Kinh Nghiệm Thành Đạt của Cuộc Đời Đức Khổng Tử

I. Kinh Nghiệm Thành Đạt

Khổng-Tử đã kể lại các giai-đoạn thành-đạt của cuộc đời ngài như sau: "Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên-mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" (Ta tới mười lăm tuổi mới chuyên-chú vào việc học, ba mươi tuổi mới tự-lập, bốn mươi tuổi mới thấu-hiểu hết sự lý trong thiên-hạ, năm mươi tuổi mới biết mệnh trời, sáu mươi tuổi mới có kiến-thức và kinh-nghiệm hoàn-hảo để có thể phán-đoán ngay được mọi sự-lý và nhân-vật mà không thấy có điều gì chướng-ngại khi nghe được, và bảy mươi tuổi mới có thể nói hay làm những điều đúng theo ý-muốn của lòng mình mà không ra ngoài khuôn-khổ đạo-lý). 
Trong lời phát-biểu trên, Đức Khổng-Tử có ý nói rằng con người tới một lứa tuổi nào đó mới có khả-năng nhận-thức và thực-hành những điều mà người chưa đạt đến lứa tuổi đó thì chưa nhận-thức và thực-hành được. Để giúp các bạn trẻ hiểu rõ trọn-vẹn ý-nghĩa lời phát-biểu của Khổng-Tử trên đây, chúng tôi xin bàn về từng phần của lời phát-biểu này. 

1- Ngô Thập Hữu Ngũ Nhi Chí Vu Học 

Trong câu "ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học," chúng tôi thấy có mấy chữ cần phải được giải-thích để giúp các bạn trẻ hiểu cho rõ. Chữ "hữu" có nghĩa là "thêm" (thập hữu ngũ: mười thêm năm, tức là 15), chữ "chí" có nghĩa là "để hết tâm ý," và chữ "vu" có nghĩa là "đối với" Cả câu "ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học" có nghĩa là khi tới 15 tuổi, ta mới có thể tự-mình chuyên-tâm vào việc học. Có biết như thế, các bậc cha mẹ mới không buồn-phiền khi thấy các con mình mải chơi đùa và không chịu chuyên tâm học-hành trước khi chúng chưa tới lứa tuổi 15. Và cũng nhờ đó, các bậc cha mẹ mới đem hết kiên-nhẫn, kỹ-năng, và nghệ-thuật để chăm-nom săn-sóc cho các con mình ngay từ khi chúng còn nhỏ (trước 15 tuổi) hầu giúp chúng thành-công trong việc học. 

2- Tam Thập Nhi Lập 
"Tam thập nhi lập" có nghĩa là khi người ta tới 30 tuổi thì sức tự-lập mới có thể chắc-chắn và vững-vàng. Thực vậy, khi đạt tới 30 tuổi, con người có thể tự-lập và gây-dựng nên sự-nghiệp cho mình với điều-kiện là họ phải có chí tự-lập cũng như được cha mẹ săn-sóc và giáo-dục chu đáo. Chí tự-lập của con người giữ vai-trò quyết-định trong việc tự-ập. Trong thực-tế đã có nhiều người tự-lập từ trước lứa tuổi 30 và cũng có người không tự-lập được ở ngoài lứa tuổi 30. Đây là trường-hợp của những người có chí tư- lập hay không. Nếu không có chí tự-lập thì dù cha mẹ có săn-sóc và giáo-dục cũng vẫn không tự-lập được. Họ là những người ăn bám gia-đình và xã-hội. 

3- Tứ Thập Nhi Bất Hoặc

"Tứ thập nhi bất hoặc" có nghĩa là khi người ta tới 40 tuổi mới có thể hiểu thấu mọi sự-lý trong thiên-hạ, phân biệt được việc phải hay trái cũng như hiểu được ai là người tốt hay xấu, phân biệt được những ai là người chân-chính yêu nước thương nòi và biết được cái gì nên làm hay không. Không phải người nào ở cái tuổi 40 cũng được như vậy. Muốn đạt tới trình độ "nhi bất hoặc," con người phải được giáo-dục kỹ-lưỡng và tự mình cố công học-hỏi chuyên-cần ngay từ khi còn nhỏ. 

4- Ngũ Thập Nhi Tri Thiên-Mệnh 

"Ngũ thập nhi tri thiên-mệnh" có nghĩa là khi người ta tới 50 tuổi mới có thể thông-suốt chân- lý của tạo-hoá, tức là hiểu được mệnh của trời. Không phải bất cứ ai tới 50 tuổi là đạt được trình-độ "tri thiện-mệnh" Muốn đạt được trình độ "tri thiên-mệnh," con người cũng phải có căn-bản vững-vàng về giáo-dục, kiến-văn, và kinh-nghiệm sống. 

5- Lục Thập Nhi Nhĩ-Thuận 

"Lục thập nhi nhĩ-thuận" có nghĩa là khi người ta tới 60 tuổi thì mới đạt đến mức độ hoàn-hảo về mặt tri-hành, kiến-văn, và kinh-nghiệm về cuộc sống. Nhờ đó, người ta có thể nhận-xét và phán- đoán được ngay tức-khắc và chính-xác về các sự-kiện và nhân-vật trong thiên-hạ. Khi nhìn hay nghe thấy điều gì, người ta không những không cảm thấy chướng-ngại mà còn hiểu thấu ngay mọi lẽ. Không phải tự-nhiên mà ta đạt được trình-độ "nhi nhĩ thuận" Muốn đạt được trình-độ này, con người cũng phải có căn-bản giáo-dục, đạo-đức, kiến-văn, và kinh-nghiệm từng-trải về sự đời. 

6- Thất Thập Nhi Tùng Tâm Sở Dục Bất Du Củ 

"Thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" có nghĩa là tới 70 tuổi, con người sẽ đạt đến tình- trạng rất hoàn-hảo về cách xử-sự và xử-thế. Nhờ đó mà mỗi khi người ta định nói điều gì hay làm việc gì thì tự-nhiên thể-hiện đúng với chủ tâm của lòng mình, muốn sao được vậy, và không bao giờ vượt ra khỏi khuôn-khổ của đạo-lý hay lẽ thường. Đây là trình-độ tuyệt-hảo của con người ở vào tuổi từ 70 trở lên nếu trước đó họ được giáo-dục đúng cách, tự tìm tòi học-hỏi, có kiến-văn quảng-bác, có tu-tâm dưỡng-tánh, và đã từng-trải cũng như rút được ưu khuyết-điểm trong các kinh-nghiệm về nỗi ê-chề đớn-đau của cuộc đời. 

Tuy rằng Khổng-Tử đã trình bày về những lứa tuổi cuộc đời cụ-thể của ngài như đã nói ở trên, chúng ta phải hiểu rằng đây cũng là ý của ngài muốn nói về từng giai-đoạn tác-thành-của các lứa tuổi cuộc đời con người. Muốn đạt tới khả-năng nhận-thức và thực-hành ở mỗi lứa tuổi như đã đề-cập ở trên, người ta phải được giáo-dục và tự mình chuyên-tâm vào việc học-hỏi liên-tục ngay từ khi còn trẻ, tức là từ trước khi tới lứa tuổi 15 và tiếp-tục cho tới 70 tuổi, để trau-giồi kiến-văn, đạo-đức, và rút-tỉa kinh-nghiệm trong cuộc sống hàng ngày. 

Mỗi lứa tuổi 15, 30, 40, 50, 60, và 70 thể-hiện kết-quả của việc giáo-dục trong gia-đình và học-đường cùng kiến-văn có được qua sự học-hỏi ở trường đời. Nếu không được giáo-dục đúng cách và nếu không biết tự tu tâm dưỡng tánh, tự trau-giồi kiến-văn cho hoàn-hảo, và tự rút tỉa kinh-nghiệm trường đời thì con người giống như "ông bình vôi," càng sống lâu càng ngu và càng làm hại dân hại nước dù rằng có bằng cấp cao đến thế nào đi nữa. 

Có tuổi là một việc, nếu không được giáo-dục đúng cách và không tự trau-giồi kiến-văn cùng kinh-nghiệm sống thì dù tới 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi, 60 tuổi, hay 70 tuổi đi nữa, người ta cũng không có sức tự-lập, không hiểu hết sự lý, không biết được mệnh trời, không thông-suốt mọi lẽ, và không thể làm chủ được hành-động và tư-tưởng của mình nhiên-hậu sẽ vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý. Việc quan- trọng nhất là nếu đã tới 30 tuổi mà không tự-lập được vững-vàng, ta sẽ gặp nhiều gian-truân chứ đừng nói chi đến việc có thể giúp mình và giúp đời một cách có hiệu-quả được.


II. Việc Học và Trau Giồi Kiến-Văn 

1. Học Kinh-Nghiệm Của Người 

Muốn lập thân cho đúng nghĩa của nó, các bạn trẻ phải chú-tâm vào việc học. Học không phải có nghĩa là chúng ta chỉ cần cắp sách đến trường và đọc nhiều sách vở để biết chữ nghĩa hay học được một nghề để kiếm nhiều tiền hầu vinh-thân phì-gia là đuViệc học phải gồm đủ mọi mặt và nhiều cách. 
Mục-đích của việc học là để thành con người với đúng nghĩa của nó, tức là con người hoàn-hảo, có đạo-đức, và hữu-dụng cho nhà cho nước. Học là noi gương sáng của tiền-nhân và các bậc vĩ-nhân quân-tử, tức là bắt-chước những việc làm ích quốc lợi dân mà các bậc tiền-nhân đã làm. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải bắt-chước những việc làm của các người đồng thời với ta khi việc làm của họ có ý-nghĩa và đáng cho ta học-hỏi và noi theo để cứu-nhân độ-thế. 
Cần phải giao-thiệp rộng và lăn-lộn với đời để học kinh-nghiệm sống và trau-giồi kiến-văn cho quảng-bác. Học để phân-biệt được điều phải điều trái. Thấy điều tốt điều phải, ta phải bắt-chước. Thấy điều sai quấy, ta phải tránh. Người khôn là người biết học kinh-nghiệm của người khác, người dại là người chỉ biết học kinh-nghiệm của chính mình. 

2. Học Một Biết Mười 

Từ những hiểu-biết căn-bản của việc học có được tại học-đường và trong gia-đình, ta có thể nghiên-cứu thêm và nhiên-hậu phát-minh ra những điều mới. Làm sao học một để biết mười, tức là học cách tìm tòi nghiên-cứu, suy-diễn, nhận-xét, và phê-phán. Không nên quá tin vào sách-vở vì sách-vở cũng có nhiều cái sai trái trong đó. Người xưa có nói "Tận tín ư thư bất như vô thư," tức là quá tin vào sách thà đừng có sách còn hơn. Điều này là để cảnh-cáo những người thuộc loại mọt-sách. Đọc sách mà không chịu phân-tích và nhận-xét thì chỉ có hại mà thôi. Thậm-chí có người còn cho là những gì cổ- nhân viết ra để lại cho hậu-thế chỉ là những "tao-phách" (cặn bã) mà thôi. Những người biết cách học- hỏi thì phải coi những "tao-phách" này như là một tài-liệu để nghiên-cứu thêm mà thôi chứ không có thể nào hoàn-toàn tin vào đó được. 

3. Học phải Hành 

Những điều gì học được phải đem thực-hành để giúp-ích cho đời. Biết mà để đó cũng giống như không biết và cái biết đó là một điều vô-ích. Biết điều phải mà không làm thì cái biết đó chẳng có ích gì cho nhân-quần xã-hội. Hơn-nữa, khi ta học được điều hay mà không đem ra phổ-biến và thực- hành thì cái học của ta cũng mai-một đi. Chính vì thế mà việc học ở các nước tân-tiến đều đi từ kiến- thức tới thí-nghiệm, trắc-nghiệm, áp-dụng, rồi thi-hành, và cuối cùng lượng-giá cùng rút ưu-khuyết- điểm để cải-tiến hầu giúp-ích cho đời-sống con người tốt đẹp hơn. 

4. Học để Làm Người

Đây là cái học quan-trọng nhất. Cái học của Á-Đông chúng ta chú-trọng tới việc xây-dựng con người toàn-diện về kiến-thức cũng như về đạo-đức. Cái học của Tây-Âu chú-trọng về mặt chuyên-môn để đào-tạo các chuyên-gia hơn là đào-tạo con người. Tuổi trẻ Việt-Nam ở hải-ngoại đã có lõi-cốt của cái học Á-Đông ta, nay lại được học thêm cái tinh-tuý về khoa-học kỹ-thuật Tây-Âu thì thật là điều tuyệt-diệu. Học để có kiến-thức và chuyên-môn cao thì dễ, nhưng muốn học để làm người, con người toàn-diện, thì rất khó. Chính vì thế mà các bạn trẻ cần phải chú-ý các mặt sau để việc học của ta thêm hoàn-hảo: 

- Ở trong Gia-Đình Phải Học sao để Làm Người Con Hiếu-Thảo.
"Hiếu-Thảo" là rường- mối của mọi nết ăn-ở trên đời. Cha mẹ là người sinh ra mình, săn-sóc và nuôi-nấng mình rất vất-vả, và còn lo giáo-dục cho mình nên người tử-tế nữa. Công-đức ấy kể sao cho xiết được! Chính vì thế mà con cái phải biết kính-yêu và biết ơn cha mẹ. Lúc nhỏ, con cái chỉ cần thể-hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng cách vâng-lời cha mẹ, chăm-chỉ học-hành, và yêu mến cha mẹ. Khi lớn lên, con cái thể-hiện sự biết ơn cha mẹ bằng cách hết lòng phụng-dưỡng mẹ cha, ân-cần săn-sóc cha mẹ, kính-trọng cha mẹ, và giúp-đỡ cha mẹ mổi khi cha mẹ cần đến. Có được như thế thì con cái mới được gọi là người con có hiếu và mới được gọi là người có giáo-dục. Nếu làm trái các điều này, ta là người con bất-hiếu. Con người đã mang tội bất-hiếu thì chắc-chắn họ chỉ là kẻ sâu-dân mọt-nước. 

Học Sao để Có Đễ với Anh Chị Em của Mình.
 "Đễ" có nghĩa là kính yêu, thương yêu, và hoà-thuận đối với anh chị em. Nói một cách khác, đối-xử tử-tế, hợp đạo-lý, và giữ trọn tình-nghĩa trước sau với anh chị em đều được gọi là "đễ" Có đễ thì anh chị em mới hoà, đồng-bào mới thương yêu nhau, và nhiên-hậu xã-hội mới thịnh-vượng. 

- Học sao để Đạt Được Đức-Tính Cẩn-Trọng và Chân-Thành
  Khi làm việc gì và khi tiếp- đãi ai, "cẩn-trọng" là điều ta phải chú tâm. Điều này có nghĩa là khi giao-tiếp với tha-nhân, ta phải giữ lễ và tôn-trọng ý-kiến của họ. 
Khi đã nhận làm việc gì, ta phải chú-tâm để làm cho bằng được. Khi đã hứa với ai điều gì, ta phải giữ lời và nếu vì lẽ gì không giữ được lời đã hứa, ta phải thông-báo kịp thời để người ta tìm người khác thay thế. 
Đã có quan-niệm cho là người Việt mình quá nhiều tự-ái và thiếu chân-thành. Trong thực- tế, nhận-xét này rất đúng. Chính vì lẽ đó, muốn thành-công và giúp ích cho dân cho nước, ta phải bớt tự-ái và thêm chân-thành. Chân-thành là nghĩa là duyên, Bớt phần tự-ái tạo nên thân tình (thơ Khải Chính). Sự chân-thành phải coi là nòng-cốt vì có chân-thành mới có tín. Tín là báu-vật của cả nhân- loại. Không có tín, con người sẽ biến thành kẻ bất-lương và là hạng sâu-dân mọt-nước. Khi làm việc, ta phải cẩn-trọng và chân-thành, tức là có tín, thì mọi việc sẽ thành-công. Muốn thế, khi làm một công việc gì, ta phải có kế-hoạch thi-hành, đôn-đốc, và kiểm-soát trong tinh-thần cộng-tác, tương-kính, khoa-học, và dân-chủ. 
Có cẩn-trọng và có tín thì ta mới có thể làm việc ích-quốc lợi-dân được. Ở Bắc-Mỹ này nếu ta bị coi là người "no trust," tức là kẻ bất-tín, thì không thể nào tiến-thân được và suốt đời phải sống trong sự khinh-khi của người đời. 

- Phải Học Sao Có Được Lòng Từ-Ái, Khoan-Dung, và Độ-Lượng.
Đạo Phật coi trọng các hạnh "đại-từ ,đại-bi, đại-hỷ, đại-xậu" Đại-từ là lòng hiền-lành lớn nhằm đem lại niềm-vui cho tất-cả chúng-sinh, đại-bi là lòng thương-xót lớn nhằm cứu-khổ cho tất cả chúng-sinh, đại-hỷ là tạo sự vui-vẻ với tất-cả chúng-sinh, và đại-xả là đem tất-cả mọi sự vui thích của mình mà thí cho người khác. 

Đạo Thiên-Chúa coi trọng đức "bác-ái" Bác-ái là yêu thương tất-cả mọi người mọi vật và giúp ích cho đời, yêu người như yêu mình và yêu cả kẻ thù. 

Khổng-Giáo coi trọng lòng "nhân" Nhân là tính tốt ở trong lòng mà trời đã phú sẵn cho ta, đó là cái lòng tốt của con người. Lòng nhân là điều cốt-yếu giúp ta để trở thành con người vì nếu con người đã bất-nhân thì không còn phải là con người nữa mà là con vật!  Ngoài ra, Khổng Tử còn nói: "Khắc kỷ phục lễ vi nhận" Điều này có nghĩa là bỏ hết cái bệnh tư-dục của mình là khắc-kỷ, hồi-phục được chân-lý của trời là phục lễ, đó là nhân. Nói tóm-lại, nhân là lòng thương yêu và kính-trọng người. 

Phật-Giáo,Thiên-Chúa-Giáo, và Khổng-Giáo đều dậy ta tấm lòng yêu thương tha-nhân, khoan-dung độ-lượng với mọi người, và ăn ở phải có lòng nhân. Ta phải sáng-suốt để gần-gũi người có nhân 
"Khoan- dung độ-lượng" có nghĩa là tha-thứ và thương yêu mọi người khi họ vô-ý vướng phải lỗi-lầm. 

-Phải Học Sao Để Lập-Chí. Khi muốn làm việc gì, ta quyết-định làm cho bằng được, đó là chí. Người xưa thường nói: "Hữu chí giả, sự cánh thành (người đã có chí thì việc chắc phải nên); có chí thì nên; có chí làm quan, có gan làm giàu; làm trai chí ở cho bền, chớ lo muộn vợ, chớ phiền muộn con; làm trai có chí lập-thân, rồi ra gặp hội phong-vân có ngày; làm trai quyết-chí tang-bồng, sao cho tỏ mặt anh-hùng mới cạm" Vậy chí là cái lòng muốn làm và quyết-định làm một việc gì cho đến thành-công mới thôi. Ta phải học-tập làm sao để thực-hiện được "lòng muốn và quyết-định" này mỗi khi ta bắt tay vào làm một công-việc gì. Có như thế thì mọi việc ta theo-đuổi mới thành-công tốt đẹp. 

Khi đã có hiếu, đễ, cẩn-trọng, chân-thành, từ-ái, khoan-dung độ-lượng, và lập được chí thì cái học của ta mới toàn-vẹn. Tuy-nhiên, cuộc đời vẫn có nhiều ngoại-lệ, nhất là ở thời nay. Hoàn-cảnh và dòng-giống cũng có ảnh-hưởng đến sự hiểu-biết và sự lập-nghiệp của con người. Xưa cũng như nay, vẫn có người lập-nghiệp và tự-lập được ở cái tuổi hai mươi và có người còn sớm hơn nữa. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người ở ngoài cái tuổi 30 mà vẫn không lập-nghiệp và tự-lập được. 
Cùng một trình-độ học-vấn mà ở mỗi tuổi người ta hiểu sự-vật một khác. Cùng một tác-phẩm mà mỗi lần đọc lại, ta lại hiểu kỹ hơn. Cuộc sống và sự học-hỏi giúp ta hiểu đời càng ngày càng kỹ hơn. Chính vì thế mà đến tuổi 60, nếu đã có kiến-văn và kinh-nghiệm vững-vàng thì mỗi khi thấy sự việc gì dù trái hay phải, dù thiện hay ác, dù sướng hay khổ, ta cũng không lấy gì làm ngạc-nhiên. Bởi thế cái tuổi 60 mươi mới được gọi là tuổi "nhi nhĩ thuận" Đến tuổi 70, nếu ta có kiến-văn quảng-bác, kinh-nghiệm chín-chắn, và sở-học uyên-thâm thì mọi việc ta suy-nghĩ, phát-biểu, hay làm đều theo dúng với lương-tâm cùng khuôn-khổ của đạo-lý. Bởi thế, cái tuổi 70 mới được gọi là tuổi "tùng tâm sở dục bất du cụ" 

III. Kết-Luận 

Không phải cứ có nhiều tuổi ta mới thông-minh tài giỏi. Thông-minh có thể do nòi-giống và sự bẩm-sinh mà có. Người xưa thường cho là "lão ô bách tuế không bằng phượng hoàng sơ sinh" (con quạ già trăm tuổi không bằng chim phượng-hoàng mới sinh ra) hay "hậu sinh khả uý" là vậy. Tuy nhiên, kiến-thức và kinh-nghiệm phải do học-hỏi mới thành. Tuổi đời cộng thêm việc học-hỏi và từng-trải mới đạt được các trình-độ "tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du cụ" Ta cần phải chú tâm vào việc học ngay từ khi còn trẻ và tiếp-tục học mãi cho đến già. Việc học phải bao-gồm từ sự bắt-chước, trau-giồi kiến-thức, nghiên-cứu, áp-dụng, thực-hành, đến việc học làm người. Ngoài ra, ta phải cố-gắng và có quyết-tâm học-hỏi thì mới mong đạt tới trình-độ từ "tam thập nhi lập" đến "tùng tâm sở dục bất du củ" một cách đúng nghĩa của nó được.
 

Lê Anh Minh dịch

LỜI DẠY CỦA ĐỨC KHỔNG TỬ

Đọc hết mới là kẻ trọng đạo lý, hiểu hết mới mong có nhân cách hơn người.
Hình hài của mẹ của cha
Trí khôn đời dạy, đói no tự mình
Sang hèn trong kiếp nhân sinh
Buồn vui sướng khổ thường tình thế thôi
Không hơn hãy cố gắng bằng người
Cho thiên hạ khỏi ai cười ai khinh
Có chí thì ham học
Bất chí thì ham chơi
Trí khôn tạo nên người
Đức nhân tìm ra bạn
Thành đạt nhờ đức dày
Làm nên nhờ có thầy
Đủ đầy nhờ có bạn
Gái ngoan nhờ đức hạnh
Trai mạnh nhờ lực cường
Tươi đẹp lắm người thương
Lực cường nhiều kẻ mạnh
Dễ thích nghi thì sống
Biết năng động thì nên
Đủ tài trí làm nên
Đủ sức bền thì thắng
Biết mình khi hoạn nan
Hiểu bạn lúc gian nguy
Nghèo hèn bởi tự ti
Ngu si vì tự phụ
Tài đức cao hơn phú
Hạnh phúc đủ hơn giàu
Sống trung tín bền lâu
Tình nghĩa sâu hạnh phúc
Đủ tài thì đỡ cực
Đủ sức thì đỡ nghèo
Dốt nát hay làm theo
Hiểu biết nhiều thì lợi
Hỏng việc thì hấp tấp
Va vấp bởi vội vàng
Cảnh giác với lời khen
Bình tâm nghe lời trách
Quá nghiêm thì ít bạn
Dễ dãi bạn khinh nhờn
Không hứa hão là khôn
Không tin xằng ít vạ
Làm ơn đừng mong trả
Được ơn nhớ đừng quên
Nhu nhược bị ép trèn
Quá cương thì bị gãy
Cái quý thì khó thấy
Dễ lấy thường của tồi
Của rẻ là của ôi
Dùng người tội sinh vạ
Đẹp lòng hơn tốt mã
Nền nã hơn kiêu kì
Thận trọng từng bước đi
Xét suy khi hành động
Hiểu biết nhiều dễ sống
Luôn chủ động dễ thành
Thận trọng trước lợi danh
Giữ mình đừng buông thả
Tránh xa phường trí trá
Tai vạ bởi nể nang
Tài giỏi chớ khoe khoang
Giàu sang đừng kênh kiệu
Học bao nhiêu vẫn thiếu
Học bao nhiêu chẳng thừa
Nhân đức nhờ bán mua
Được thua không nản trí
Đủ đức tài bớt lụy
Đủ dũng khí chẳng hàng
Có vợ đảm thì sang
Có bạn vàng thì quý
Đói nghèo vì bệnh sĩ
Quẫn trí dễ làm liều
Tỉnh táo với tình yêu
Biết điều khi yếu thế
Lo việc nhà chớ kể
Ân nghĩa chớ đếm đong
Người phúc lộc nhờ nguồn
Sống bất nghĩa tai ương
Sống bất lương tù ngục
Phải cầu xin là nhục
Phải khuất phục là hèn
Hay đố kị nhỏ nhen
Hay ép trèn độc ác
Lắm gian truân càng sáng
Nhiều hoạn nạn càng tinh
Với mình phải nghiêmminh
Với chúng sinh thân ái
Đang thắng phòng khi bại
Gặt hái phòng mất mùa
Thói quen thường khó chừa
Say sưa thường khó tỉnh
Sống ỉ lại ăn sẵn
Dễ bạc phân tán mình
Sống dựa dẫm ngu đần
Sống bất cần phá sản
Hay đua đòi hoạn nạn
Quá nể bạn tai ương
Gia đình trọng yêu thương
Sống nhịn nhường hỉ hả
Thiếu tình thương man trá
Gắn vàng đá cũng tan
Biết dạy dỗ con ngoan
Chịu bảo ban con giỏi
Tinh khôn nhờ học hỏi
Cứng cỏi nhờ luyện rèn
Sống vì nhau dễ bền
Sống vì tiền đổ vỡ
Rèn con từ mới nở
Khuyên vợ lúc mới về
Muốn hiểu cần lắng nghe
Khốn nạn quên mẹ cha
Tốt đẹp hãy bày ra
Xấu xa nên đậy lại
Có ích thì tồn tại
Có hại thì diệt vong
Nhiều tham vọng long đong
Lắm ước mong lận đận
Hay vội vàng hối hận
Quá cẩn thận lỗi thời
Biết được người là sáng
Hiểu được bạn là khôn
Khiêm tốn là tự tôn
Kiêu căng là tự sát
Hứa trước thì khó đạt
Hèn nhát thì khó thành
Thù hận bởi lợi danh
Tranh giành vì chức vị
Giàu sang hay đố kị
Tài trí sinh ghét ghen
Tham giàu thì cuồng điên
Tham quyền thì độc ác
Vì tiền thì dễ bạc
Vì tình nghĩa bền lâu
Người hiểu nói trọn câu
Người dốt tâu phách lối
Có quyền thì hám lợi
Có tội thường xum xoe
Khờ dại hay bị lừa
Nó bừa hay vạ miệng
Đa ngôn thì tai tiếng
Ngậm miệng dễ được tin
Hám lợi hay cầu xin
Hám quyền hay xu nịnh
Thật thà hay oan trái
Thẳng thắn hay bị hại
Thông thái hay bị ngờ
Chiều con quá con hư
Tiền của dư con hỏng
Giàu mạnh thường thao túng
Nghèo vụng dễ theo đuôi
Người tài giỏi khó chơi
Kẻ trây lười khó bảo
Thành tâm thì đắc đạo
Mạnh bạo việc dễ thành
Quân tử thì trọng danh
Tiểu nhân thì trọng lợi
Bất tài hay đòi hỏi
Lộc lõi khó khiêm nhường
Tình nghĩa thường khó quên
Nợ nhân duyên khó trả
Khó thuần phục kẻ sĩ
Khó phòng bị tướng tài
Biết chấp nhận thảnh thơi
Hay hận đời đau khổ
Của quý thì khó giữ
Con cầu tự khó nuôi
Nhà dư của hiếm hoi
Nhà lắm người bạc cạn
Khó gần người quá sạch
Vắng khách tại quá nghèo
Dễ nổi danh kị hiền
Dễ kiếm tiền khó giữ
Kiếp người là duyên nợ
Lành vỡ lẽ thường tình
Bại thành từ lực trí
Thời gian đừng uổng phí
Biết suy nghĩ sâu xa.
nguyenhatn2004@gmail.com

KIÊN BẠCH 堅 白 – ĐỒNG DỊ 同 異

Kiên bạch là một học thuyết thời Chiến Quốc. Bấy giờ có hai phái: một phái gọi là «Ly kiên bạch» (cứng và trắng cách ly nhau), đứng đầu là Công Tôn Long. Ông phân tích «kiên bạch thạch» (đá trắng cứng) rằng kiên và bạch cách biệt nếu ta chạm vào hoặc nhìn vào hòn đá. Còn phái kia gọi là «Doanh kiên bạch» (cứng và trắng bất khả phân), đứng đầu là Mặc Tử. Ông cho rằng kiên và bạch đều là thuộc tính của đá, nên chúng bất khả phân.

441. Bỉ phi sở minh nhi minh chi, cố dĩ kiên bạch chi muội chung. [Trang Tử, Tề Vật Luận]
彼非所明而明之,故以堅白之昧終。《莊子 • 齊物論》
【Dịch】Người khác không hiểu mà cố làm cho họ hiểu, tức là giống như lấy cái thuyết «kiên bạch» để đẩy họ vào chỗ tối tăm.

442. Trang Tử đối Huệ Tử viết: «Kim tử ngoại hồ tử chi thần, lao hồ tử chi tinh, ỷ thụ nhi ngâm, cứ cảo ngô nhi minh, thiên tuyển tử chi hình, tử dĩ kiên bạch minh.» [Trang Tử, Đức Sung Phù]
莊子對惠子曰:『今子外乎子之神,勞乎子之精,倚樹而吟,據槁梧而瞑,天選子之形,子以堅白鳴。』《莊子 • 德充符》
【Dịch】Trang Tử bảo Huệ Thi: «Nay ông đã sử dụng cái thần của mình như thể nó ở ngoài thân, đã lao nhọc tinh lực của mình; cứ dựa cây mà ngâm nga; cứ bám gốc cây ngô đồng mục nát mà ngủ. Trời đã lựa cho ông tấm thân này, thế mà ông cứ tranh tranh cãi cãi nào là kiên với bạch.»

443. Kê tam túc. Dĩnh hữu thiên hạ. Khuyển khả dĩ vi dương. Mã hữu noãn. Đinh Tử hữu vĩ. Hoả bất nhiệt. Sơn xuất khẩu. Luân bất niễn địa. Mục bất kiến. Chỉ bất chí, chí bất tuyệt. Qui trường vu xà. Củ bất phương, qui bất khả dĩ vi viên. Tạc bất vi nhuế. Phi điểu chi ảnh vị thường động dã. Thốc thỉ chi tật nhi hữu bất hành, bất chỉ chi thời. Cẩu phi khuyển. Hoàng mã ly ngưu tam. Bạch cẩu hắc. Cô câu vị thường hữu mẫu. Nhất xích chi chủy, nhật thủ kỳ bán, vạn thế bất kiệt. [Trang Tử, Thiên Hạ]
雞三足。郢有天下。犬可以為羊。馬有卵。丁子有尾。火不熱。山出口。輪不碾地。目不見。指不至,至不絕。龜長于蛇。矩不方,規不可以為圓。鑿不為枘。飛鳥之影未嘗動也。鏃矢之疾,而有不行、不止之時。狗非犬。黃馬驪牛三。白狗黑。孤駒未嘗有母。一尺之棰,日取半,萬世不竭。《莊子 • 天下》
【Dịch】Gà có ba chân. Kinh đô Dĩnh [của nước Sở] gồm thâu thiên hạ. Chó có thể là dê. Ngựa có trứng. Cóc nhái có đuôi. Lửa không nóng. Núi phát ra từ miệng. Bánh xe không lăn trên mặt đất. Mắt không thấy. Ngón tay chỉ đồ vật nhưng không chạm nó. Nơi anh đến không phải là kết thúc. Rùa dài hơn rắn. Cái ê-ke thợ mộc không vuông. Cái com-pa không thể tròn. Cái đục không xoay quanh cái mộng. Bóng chim đang bay chưa từng động. Mũi tên bay nhanh, có lúc nó không bay cũng không dừng. Chó không là chó. Ngựa vàng và bò đen là ba con. Chó trắng thì đen. Ngựa mồ côi thì không bao giờ có mẹ. Cây gậy dài một thước, mỗi ngày lấy đi một nửa, thì muôn đời cũng không lấy hết.

444. Chí đại vô ngoại, vị chi đại nhất; chí tiểu vô nội, vị chi tiểu nhất. Vô hậu, bất khả tích dã, kỳ đại thiên lý. Thiên dữ địa ti, sơn dữ trạch bình. Nhật phương trung phương nghễ, vật phương sinh phương tử. Đại đồng nhi dữ tiểu đồng dị, thử chi vị «tiểu đồng dị»; vạn vật tất đồng tất dị, thử chi vị «đại đồng dị». Nam phương vô cùng nhi hữu cùng. Kim nhật thích việt nhi tích lai. Liên hoàn khả giải dã. Ngã tri thiên hạ chi trung ương, Yên chi bắc Việt chi nam thị dã. Phiếm ái vạn vật, thiên địa nhất thể dã. [Trang Tử, Thiên Hạ]
至大無外,謂之大一;至小無內,謂之小一。無厚,不可積也,其大千里。天與地卑,山與澤平。日方中方睨,物方生方死。大同而與小同異,此之謂 «小同異»;萬物畢同畢異,此之謂 «大同異» 。南方無窮而有窮。今日適越而昔來。連環可解也。我知天下之中央,燕之北 、越之南是也。泛愛萬物,天地一体也。《莊子 • 天下》
【Dịch】Cái cực lớn và không có gì ở ngoài nó thì gọi là Đại Nhất. Cái cực nhỏ và không có gì ở trong nó thì gọi là Tiểu Nhất. Cái không có bề dày và không thể bị chồng lên thì lớn một ngàn dặm. Trời thấp như đất. Núi ngang với đầm. Mặt trời đứng bóng thì nghiêng. Vật vừa sinh là vừa chết. Sự đại đồng (giống nhau nhiều) khác với sự tiểu đồng (giống nhau ít), đó gọi là «tiểu đồng dị» (sự khác biệt của sự giống nhau ít). Mọi vật hoàn toàn giống nhau hay hoàn toàn khác nhau, đó gọi là «đại đồng dị» (sự khác biệt của sự giống nhau nhiều). Phương nam vô cùng tận mà lại cùng tận. Hôm nay tôi đến nước Việt và hôm qua tôi đến đó. Vật liên kết có thể bị tách rời ra. Tôi biết trung ương của thiên hạ: nó ở phía bắc nước Yên và phía nam nước Việt. Hễ yêu khắp vạn vật, thì trời và đất hợp thành một thể.

445. Hợp dị dĩ vi đồng, tán đồng dĩ vi dị. [Trang Tử, Tắc Dương]
合異以為同,散同以為異。《莊子 • 則陽》
【Dịch】Kết hợp các điểm khác biệt thì thành sự đồng nhất, phân tán sự đồng nhất thì thành các điểm khác biệt.

446. Nịch giả nhập thủy, chửng chi giả diệc nhập thủy. Nhập thủy giả tắc đồng, sở dĩ nhập thuỷ giả tắc dị. [Hoài Nam Tử, Thuyết Sơn Huấn]
溺者入水,拯之者亦入水。入水者則同,所以入水者則異。《淮南子 • 說山訓》
【Dịch】Người chết đuối đã vào trong nước; kẻ cứu vớt hắn cũng vào trong nước. Hàng động vào trong nước là giống nhau, nhưng nguyên nhân thì khác nhau.

447. Hàn giả đàn, cụ giả diệc đàn, thử đồng danh nhi dị thực dã. [Hoài Nam Tử, Thuyết Sơn Huấn]
寒者顫,懼者亦顫,此同名而異實也。《說山訓》
【Dịch】Lạnh cũng run rẩy, sợ cũng run rẩy. Hai việc này cùng tên gọi mà thực trạng thì khác nhau.

448. Vật hữu đồng nhi dị, hữu dị nhi đồng, hữu phi nhi thị, hữu thị nhi phi. Thử quân tử chi sở dĩ vô hoạn, nhi chúng thứ chi sở dĩ ưu bi dã. [Đạo Đức Chỉ Quy Luận, Thiên Hạ Vị Ngã Thiên]
物有同而異,有異而同,有非而是,有是而非。此君子之所以無患,而眾庶之所以憂悲也。《道德指歸論 • 天下謂我篇》
【Dịch】Sự vật tuy khác mà giống, tuy giống mà khác; tuy sai mà đúng, tuy đúng mà sai. Cái mà người quân tử không lo rầu thì người bình thường lại lo rầu.


SÁCH THAM KHẢO CHÍNH
1- Cố Cửu (dịch chú), Cát Hồng Bão Phác Tử Nội Thiên, Quý Châu xuất bản xã (= xbx), 1995.
2- Cổ Đại Hán Ngữ Từ Điển biên tả tổ, Cổ Đại Hán Ngữ Từ Điển, Thương Vụ Ấn thư quán, Bắc Kinh, 2000.
3- Doãn Chấn Hoàn, Bạch Thư Lão Tử Dữ Lão Tử Thuật, Quý Châu xuất bản xã, 2000.
4- Hàn Sinh (tuyển dịch), Đạo Gia Châm Ngôn Lục, Nội Mông Cổ Nhân Dân xbx, Bắc Kinh, 1997.
5- Khâu Phượng Hiệp (chú dịch), Bão Phác Tử Nội Thiên Kim Dịch, Trung Quốc Xã Hội Khoa Học xbx, Bắc Kinh, 1996.
6- Ngô Phong (chủ biên), Trung Hoa Đạo Học Thông Điển, Nam Hải Xuất bản công ty, Hải Nam, 1994.
7- Ninh Chí Tân (chủ biên), Đạo Giáo Thập Tam Kinh, Hà Bắc Nhân Dân xbx, 1994.
8- Sử Đông, Giản Minh Cổ Hán Ngữ Từ Điển, Vân Nam Nhân Dân xbx, 1999.
9- Từ Căng - Phương Hú - Mục Lân (chú giải), Trung Quốc Khí Công Tứ Đại Kinh Điển, Chiết Giang Cổ Tịch xbx, 1989.
10- Vương Lực (chủ biên), Cổ Hán Ngữ Thường Dụng Tự Tự Điển, Thương Vụ Ấn thư quán, Bắc Kinh, 1993.
11- Vu Thạch - Vương Quang Hán - Từ Thành Chí (chủ biên), Thường Dụng Điển Cố Từ Điển, Thượng Hải Từ Thư xbx, 1985.
12- Nguyễn Hiến Lê (dịch), Trang Tử, Nhà xuất bản Văn Hoá, 1994.
13- D.C. Lau (trans.), Lao Tzu Tao Te Ching, Penguin Books, 1967.
14- James Legge (trans.), Chuang Tzu, (arr. by Clae Waltham), New York, 1971.
15- James R. Ware (trans.), Alchemy, Medicine, Religion in the China of A.D. 320: The Nei P’ien of Ko Hung, The MIT Press, 1966.
16- James R. Ware (trans.), The Sayings of Chuang Chou, A Mentor Classic, 1963.
17- Robert G. Henricks (trans.), Lao-Tzu Tao Te Ching: A new translation based on the recently discovered Ma-Wang-Tui texts, Ballantine Books, New York, 1989.

Lê Anh Minh dịch

CHUNG THỦY 終 始 – HỮU VÔ 有 無

424. Thiên hạ hữu thủy, dĩ vi thiên hạ mẫu. Ký đắc kỳ mẫu, dĩ tri kỳ tử. Ký tri kỳ tử phục thủ kỳ mẫu. Một thân bất đãi. [Đạo Đức Kinh, chương 52]
天下有始,以為天下母。既得其母,以知其子。既知其子,復守 其母,沒身不殆。《道德 經 • 第五十二章 》
【Dịch】Thiên hạ có khởi điểm. Khởi điểm ấy là mẹ thiên hạ. Đã được mẹ thì biết con. Đã biết con thì trở về giữ mẹ. Cho đến chết, thân cũng không gặp nguy.

425. Thận chung như thủy tắc vô bại sự. [Đạo Đức Kinh, chương 64]
慎 終如始,則無敗事。《道德經 • 第六十四章》
【Dịch】Cẩn thận lúc cuối như lúc đầu, sẽ không hư việc.

426. Hữu thủy dã giả, hữu vị thủy hữu thủy dã giả, hữu vị thủy hữu phù vị thủy hữu thủy dã giả. [Trang Tử, Tề Vật Luận]
有始也者,有未始有始也者,有未始有夫未始有始也者。《莊子。齊物論》
【Dịch】Có cái khởi đầu. Có cái khởi đầu trước cái khởi đầu đó. Có cái khởi đầu trước cái khởi đầu trước khi có cái khởi đầu đó.

427. Nhiễm Cầu vấn vu Trọng Ni viết: «Vị hữu thiên địa khả tri da?» Trọng Ni viết: «Khả. Cổ do kim dã.» Nhiễm Cầu thất vấn nhi thoái. Minh nhật phục kiến, viết: «Tích giả ngô vấn ‘vị hữu thiên địa khả tri hồ?’ Phu tử viết, ‘Khả. Cổ do kim dã.’ Tích nhất ngô chiêu nhiên, kim nhật ngô muội nhiên, cảm vấn hà vị dã?» Trọng Ni viết: «Tích chi chiêu nhiên chi, thần giả tiên thụ chi; kim chi muội nhiên dã, thả hựu vi bất thần giả cầu da? Vô cổ vô kim, vô thủy vô chung, vị hữu tử tôn nhi hữu tử tôn, khả hồ?» [Trang Tử, Trí Bắc Du]
冉求問于仲尼曰 :『未有天地可知邪?』仲尼曰 :『可。古猶今也。』冉求失問而退。明日復見曰:『昔者吾問 «未有天地可知邪?»』夫子曰:『可。古猶今也。昔日吾昭然,今日吾昧然,敢問何謂也?』仲尼曰:『昔之昭然之,神者先受之;今之昧然也,且又為不神求邪?無古無今,無始無終,未有子孫而有子孫,可乎?』《莊子 • 知北游》
【Dịch】Nhiễm Cầu hỏi Khổng Tử: «[Thưa thầy], ta có thể biết trước khi có trời đất thì thế nào không?» Khổng Tử đáp: «Biết được. Xưa và nay cũng như nhau.» Nhiễm Cầu không hỏi thêm, và rút lui. Tuy nhiên, hôm sau ông gặp Khổng Tử và hỏi: «Hôm qua con hỏi thầy rằng ta có thể biết trước khi có trời đất thì thế nào không. Thầy trả lời là biết được, xưa cũng như nay. Hôm qua con dường như hiểu rõ thầy, nhưng hôm nay con tăm tối. Con xin thầy giải thích điều này.» Khổng Tử đáp: «Hôm qua anh dường như hiểu rõ ta vì cái thần của anh đoán được câu trả lời của ta. Hôm nay anh dường tăm tối vì anh không ở trong trạng thái có thần và cố tìm ý nghĩa. Trong vấn đề này, không có xưa cũng không có nay, không có khởi đầu cũng không có chấm dứt. Lẽ nào có con cháu trước khi có con cháu khác?»

428. Hữu thủy giả tất hữu tốt, hữu tồn giả tất hữu vong. [Bão Phác Tử, Luận Tiên]
有始者必有卒,有存者必有亡。《抱朴子 • 論仙》
【Dịch】Có khởi đầu phải có kết thúc, có sống phải có chết.

429. Vô danh thiên địa chi thủy; hữu danh vạn vật chi mẫu. Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu; thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu. [Đạo Đức Kinh, chương 1]
無名,天地之始﹔有名,萬物之母。故常無欲,以觀其妙 ; 常有欲,以觀其徼。《道德經 • 第一章》
【Dịch】Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật. Cho nên thường không có dục để nhìn thấy chỗ vi diệu của sự vật. Thường có dục, để nhìn thấy chỗ giới hạn của sự vật.

430. Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô. [ĐĐK, chương 40]
天下萬物生於 有,有生於 無。《道德經 • 第四十 章》
【Dịch】Vạn vật trong thiên hạ sinh ra từ Có, và Có sinh ra từ Không.

431. Hữu vô tương sinh. [Đạo Đức Kinh, chương 2]
有無相生。《道德經 • 第二章》
【Dịch】Có và Không sinh ra lẫn nhau.

432. Hữu hữu dã giả, hữu vô dã giả, hữu vị thủy hữu vô dã giả, hữu vị thủy hữu phù vị thủy hữu vô dã giả. Nga nhĩ hữu vô hĩ, nhi vị tri hữu vô chi quả thục hữu thục vô dã. Kim ngã tắc dĩ hữu vị hĩ, nhi vị tri ngô sở vị chi kỳ quả hữu vị hồ? Kỳ quả vô vị hồ? [Trang Tử, Tề Vật Luận]
有有也者,有無也者,有未始有無也者,有未始有夫未始有無也者。俄爾有無矣,而未知有無之果孰有孰無也。今我則已有謂矣,而未吾所謂之其果有謂乎?其果無謂乎?《莊子 • 齊物論》
【Dịch】Vũ trụ có Hữu, có Vô, có Cái-trước-khi-có-Vô, có cái trước khi có Cái-trước-khi-có-Vô. Trong một khoảnh khắc có Hữu có Vô nhưng chưa biết giữa Hữu và Vô này rốt cuộc cái nào đích thực là Hữu, cái nào đích thực là Vô. Như bây giờ tôi đã nói một lời, nhưng chưa biết cái lời tôi đã nói rốt cuộc là có lời nói hay không có lời nói?

433. Quang Diệu vấn hồ Vô Hữu viết: «Phu Tử hữu hồ? Kỳ vô hữu hồ?» Quang Diệu bất đắc vấn, nhi thục thị kỳ trạng mạo: yểu nhiên không nhiên. Chung nhật thị chi nhi bất kiến, thính chi nhi bất văn, bác chi nhi bất đắc dã. Quang Diệu viết: «Chí hĩ, kỳ thục năng chí thử hồ! Dư năng hữu vô hĩ, nhi vị năng vô vô dã. Cấp vi vô hữu hĩ, hà tòng chí thử tai?» [Trang Tử, Tri Bắc Du]
光曜問乎無有曰 :『夫子有乎?其無有乎?』光曜不得問,而孰視其狀貌﹕窅然空然。終日視之不見,聽之而不聞,搏之而不得也。光曜曰 «至矣,其孰能至此乎!予能有無矣,而未能無無也。及為無有矣,何從至此哉?»《莊子 • 知北游》
【Dịch】Quang Diệu hỏi Vô Hữu: «Thưa ngài, ngài tồn tại hay không tồn tại?» Không thấy Vô Hữu trả lời, Quang Diệu bèn nhìn dung mạo của Vô Hữu: đó là một sự trống rỗng mờ mịt. Suốt ngày Quang Diệu nhìn nó nhưng không thấy gì, lắng nghe nó nhưng không nghe thấy gì, tóm chặt nó nhưng không nắm được gì. Quang Diệu bèn hỏi: «Hay lắm! Ai có thể đạt tới điều này? Tôi có thể có ý niệm về Vô và Hữu, nhưng tôi chưa có ý niệm về Vô Vô (cái Không không tồn tại). Vậy ắt vẫn còn có Vô Hữu (cái Có không tồn tại). Làm sao đạt được điều này?»

434. Thái sơ hữu vô, vô hữu vô danh. Nhất chi sở khởi, hữu nhất nhi vị hình. [Trang Tử, Thiên Địa]
泰初有無,無有無名。一之所起,有一而未形。《莊子 • 天地》
【Dịch】Thời hết sức xa xưa chỉ có Vô, không có Hữu, và không có tên. Từ Vô đến Hữu thì Một sinh ra trước hết. Một tuy tồn tại nhưng không có hình dáng.

435. Nhân kỳ sở hữu nhi hữu chi, tắc vạn vật mạc bất hữu; nhân kỳ sở vô nhi vô chi, tắc vạn vật mạc bất vô. [Trang Tử, Thu Thủy]
因其所有而有之,則萬物莫不有;因其所無而無之,則萬物莫不無。《莊子 • 秋水》
【Dịch】Căn cứ vào cái nó vốn có mà nói nó có, thì vạn vật không gì là không có; căn cứ vào cái nó vốn không có mà nói nó không có, thì vạn vật không gì là không không có.

436. Hữu hồ sinh, hữu hồ tử; hữu hồ xuất, hữu hồ nhập. Nhập xuất nhi vô kiến kỳ hình, thị vị Thiên Môn. Thiên Môn giả, vô hữu dã. Vạn vật xuất hồ vô hữu. Hữu bất năng dĩ hữu vi hữu, tất xuất hồ vô hữu, nhi vô hữu nhất vô hữu. Thánh nhân tàng hồ thị. [Trang Tử, Cang Tang Sở]
有乎生,有乎死;有乎出,有乎入。入出而無見其形,是謂天門。天門者,無有也。萬物出乎無有。有不能以有為有,必出乎無有,而無有一無有。聖人藏乎是。《莊子 • 庚桑楚》
【Dịch】Có sinh, có tử, có xuất, có nhập. Xuất nhập nhưng không thấy hình thể, đó gọi là Thiên Môn (Cửa Trời). Thiên Môn là Vô Hữu (Không Có). Vạn vật phát sinh từ Vô Hữu. Cái có không thể phát sinh từ Hữu, mà phát sinh từ Vô Hữu. Nhưng chính Vô Hữu cũng không có. Thánh nhân giấu tâm trong cái Vô Hữu này.

437. Hữu chi vi hữu, thị vô dĩ sinh; sự nhi vi sự, do vô dĩ thành. Phù đạo chi nhi vô ngữ, danh di nhi vô danh, thị chi nhi vô hình, thính chi nhi vô thanh, tắc đạo chi toàn yên. [Hà Án, Đạo Luận]
有之為有,恃無以生;事而為事,由無以成。夫道之而無語,名 之而無名,視之而無形,聽之而無聲,則道之全焉。《何晏道論》
【Dịch】Cái có sở dĩ có là nhờ cậy cái không mà sinh ra. Sự việc sở dĩ có là do cái không mà thành. Hễ có thể nói mà không dùng lời, gọi tên mà không cần tên, xem mà không cần hình thể, nghe mà không cần âm thanh, thì bấy giờ Đạo được toàn vẹn.

438. Thiên hạ chi vật, giai dĩ hữu vi sinh, hữu chi sở thủy, dĩ vô vi bản. [Vương Bật, Đạo Đức Kinh chú, chương 40]
天下之物,皆以有為生,有之起始,以無為本。《王弼 • 道德經注 • 第四十 章》
【Dịch】Vạn vật trong thiên hạ đều sinh từ cái có, mà cái khởi đầu của có chính là không, tức là lấy không làm gốc.

439. Vô hình vô danh giả, vạn vật chi tông dã. [Vương Bật, Đạo Đức Kinh chú, chương 14]
無形無名者,萬物之宗也。《王弼道德經注 • 第十四章》
【Dịch】Cái vô hình và vô danh là tông tổ (tổ tiên, gốc gác) của vạn vật.

440. Vạn vật vạn hình, kỳ qui nhất dã, hà do trí nhất? Do vu vô dã. Do vô nãi nhất, nhất khả vị vô. [Vương Bật, Đạo Đức Kinh chú, chương 42]
萬物萬形,其歸一也,何由致一?由于無也。由無乃一,一可謂無。《王弼道德經注 • 第四十二 章》
【Dịch】Vạn vật có muôn hình trạng, nhưng chúng đều trở về Một. Làm sao để đạt tới cái Một này? Phải thông qua Vô mới thực hiện được điều đó. Từ Vô mà sinh ra Một, Một có thể gọi là Vô.

Lê Anh Minh dịch

BIỆN CHỨNG 辯 證 – THẮNG BẠI 勝 敗

376. Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện hĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy. [Đạo Đức Kinh, chương 2]
天下皆知美之為美,斯惡已﹔皆知善之為善,斯不善矣。故有無相生,難易相成,長短相形,高下相傾,音聲相和,前后相隨。《道德經 • 第二章》
【Dịch】Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, là vì đã có cái xấu; đều biết tốt là tốt, là vì đã có cái không tốt. Cho nên có và không sinh ra nhau, khó và dễ thành tựu cho nhau, dài và ngắn tạo hình thể cho nhau, cao và thấp làm nghiêng nhau, âm và thanh hoà nhau, trước và sau theo nhau.

377. Khúc tắc toàn; uổng tắc trực; hóa tắc doanh; tệ tắc tân; thiểu tắc đắc; đa tắc hoặc. [Đạo Đức Kinh, chương 22]
曲則全,枉則直,窪則盈,敝則新,少則得,多則惑。《道德經 • 第二十二章》
【Dịch】Cái gì khiếm khuyết sẽ được làm cho toàn vẹn. Cái gì cong sẽ được làm cho ngay. Cái gì trũng sẽ được làm cho đầy. Cái gì cũ sẽ được làm cho mới. Có ít sẽ được thêm. Có nhiều sẽ mê muội.

378. Trọng vi khinh căn. Tĩnh vi táo quân. [Đạo Đức Kinh, ch. 26]
重為輕根,靜為躁君。《道德經 • 第二十六章》
【Dịch】Nặng là gốc của nhẹ. Tĩnh là chủ của xao động.

379. Thiện hành vô triệt tích. Thiện ngôân vô hà trích. Thiện số bất dụng trù sách. Thiện bế vô quan kiện nhi bất khả khai. Thiện kết vô thằng ước, nhi bất khả giải. [Đạo Đức Kinh, chương 27]
善行,無轍跡﹔善言,無瑕謫﹔善數,不用籌策﹔善閉,無關楗而不可開﹔善結,無繩約而不可解。《道德經 • 第二十七章》
【Dịch】Giỏi đi thì không lưu dấu vết xe. Giỏi nói thì không để bị chỉ trích. Giỏi đếm thì không dùng que đếm. Giỏi đóng cửa dù không có then chốt mà không ai mở được. Giỏi thắt dây dù không có dây nhợ mà không ai cởi được.

380. Vật tráng tắc lão. [Đạo Đức Kinh, chương 30]
物壯則老。《道德經 • 第三十章》
【Dịch】Vật lớn mạnh ắt già.

381. Tương dục hấp chi, tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi, tất cố hưng chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi. [Đạo Đức Kinh, chương 36]
將欲歙之,必故張之﹔將欲弱之,必故強之﹔將欲廢之,必故興之﹔將欲奪之,必故與之。《道德經 • 第三十六章》
【Dịch】Muốn làm cho cái gì chùng, trước hết phải căng nó ra cho thẳng. Muốn làm cho cái gì suy yếu, trước hết phải giúp cho nó mạnh thêm. Muốn vứt bỏ cái gì, trước hết phải làm cho nó hưng vượng. Muốn tước đoạt cái gì của nó, trước hết phải tặng nó cái gì đó.

382. Quí dĩ thiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ. [Đạo Đức Kinh, chương 39]
貴以賤為本,高以下為基。《道德經 • 第三十九章》
【Dịch】Sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền.

383. Minh Đạo nhược muội. Tiến Đạo nhược thoái. Di Đạo nhược lỗi. Thượng Đức nhược cốc. Đại bạch nhược nhục. Quảng đức nhược bất túc. Kiến đức nhược thâu. Chất chân nhược du. Đại phương vô ngung; đại khí vãn thành; đại âm hi thanh; đại tượng vô hình. Đạo ẩn vô danh. [Đạo Đức Kinh, chương 41]
明道若昧,進道若退,夷道若纇,上德若谷,大白若辱,廣德若不足,建德若偷﹔質真若渝,大方無隅,大器晚成,大音希聲﹔大象無形。道隱無名。《道德經 • 第四十一章》
【Dịch】Đạo sáng, dường như tăm tối. Đạo tiến, dường như thoái lui. Đạo bằng phẳng, dường như gồ ghề. Đức cao tột dường như hang cốc. Trắng tinh dường như hoen ố. Đức dầy dăn dường như khiếm khuyết. Đức chắc khoẻ dường như mềm yếu. Chất phác trinh thuần dường như biến đổi. Hình vuông lớn không góc. Vật dụng lớn lâu hoàn thành. Tiếng lớn nghe không thấy. Tượng lớn không có hình. Đạo ẩn nơi không tên.

384. Chính phục vi kỳ, thiện phục vi yêu. [Đạo Đức Kinh, chương 58]
正復為奇,善復為妖。《道德經 • 第五十八章》
【Dịch】Cái ngay thẳng lại biến thành gian trá, cái thiện lại biến thành gian tà.

385. Phù khinh nặc, tất quả tín. Đa dị tất đa nan. [Đạo Đức Kinh, chương 63]
夫輕諾必寡信,多易必多難。《道德經 • 第六十三章》
【Dịch】Những kẻ hứa hẹn bừa bãi, sẽ khó giữ được lời. Coi cái gì cũng dễ, sẽ gặp nhiều cái khó.

386. Dĩ kỳ bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. [Đạo Đức Kinh, chương 66]
以其不爭,故天下莫能與之爭。《道德經 • 第六十六章》
【Dịch】Chính vì thánh nhân không tranh với ai, nên trong thiên hạ không có ai tranh với ngài.

387. Duy vô dĩ thiên hạ vi giả khả dĩ thác thiên hạ dã. [Trang Tử, Nhượng Vương]
唯無以天下為者可以托天下也。《莊子 • 讓王》
【Dịch】Chỉ ai không màng cai trị thiên hạ là mới đáng được giao thiên hạ cho mà thôi.

388. Đại bạch nhược nhục, thịnh đức nhược bất túc. [Trang Tử, Ngụ Ngôn]
大白若辱,盛德若不足。《莊子 • 寓言》
【Dịch】Trắng tinh phải làm như bị hoen ố; đức dày phải làm như còn khiếm khuyết.

389. Chung thân ngôn, vị thường ngôn; chung thân bất ngôn, vị thường bất ngôn. [Trang Tử, Ngụ Ngôn]
終身言,未嘗言;終身不言,未嘗不言。《莊子 • 寓言》
【Dịch】Cả đời nói, mà chưa từng nói gì; cả đời không nói, mà chưa từng không nói gì.

390. Nhất xích chi chủy, nhật thủ kỳ bán, vạn thế bất kiệt. [Trang Tử, Thiên Hạ]
一尺之捶,日取其半,萬世不竭。《莊子 • 天下》
【Dịch】Gậy dài một thước, mỗi ngày chặt một nửa, chặt hoài suốt đời cũng không hết cây gậy này.

391. Trường giả bất vi hữu dư, đoản giả bất vi bất túc. [Trang Tử, Mã Đề]
長者不為有餘,短者不為不足。《莊子 • 駢拇》
【Dịch】Cái đã dài thì ta đừng cho là quá dài; và cái đã ngắn cũng đừng cho là quá ngắn.

392. Vật vật giả dữ vật vô tế, nhi vật hữu tế giả, sở vị vật tế giả dã. Bất tế chi tế, tế chi bất tế giả dã. [Trang Tử, Trí Bắc Du]
物物者與物無際,而物有際者,所謂物際者也。不際之際,際之不際者也。《莊子 • 知北游》
【Dịch】Cái tạo ra vật (tức Đạo) không có sự hạn chế với vật, nhưng vật có sự hạn chế. Đó gọi là sự hạn chế của vật. Cái giới hạn của cái không giới hạn là cái không giới hạn của cái giới hạn.

393. Phàm ngoại trọng giả nội chuyết. [Trang Tử, Đạt Sinh]
凡外重者內拙。《莊子 • 達生》
【Dịch】Ai có bề ngoài trịnh trọng thì bên trong vụng về kém cỏi.

394. Tự kỳ dị giả thị chi, can đảm Sở Việt dã; tự kỳ đồng giả thị chi, vạn vật giai nhất dã. [Trang Tử, Đức Sung Phù]
自其異者視之,肝膽楚越也;自其同者視之,萬物皆一也。《莊子 • 德充符》
【Dịch】Về mặt khác nhau mà xét thì vạn vật [khác nhau] ví như gan với mật, hay nước Sở với nước Việt. Về mặt giống nhau mà xét thì vạn vật đều là một.

395. Khả dĩ ngôn luận giả, vật chi thô dã; khả dĩ ý trí giả, vật chi tinh dã; ngôn chi sở bất năng luận, ý chi sở bất năng sát giả, bất kỳ tinh thô yên. [Trang Tử, Thu Thủy]
可以言論者,物之粗也;可以意致者,物之精也;言之所不能論,意之所不能察者,不期精粗焉。《莊子 • 秋水》
【Dịch】Cái mà ta bàn luận được là phần thô của vật; cái mà ta dùng ý niệm để đạt được là phần tinh tuý của vật. Cái không thể bàn luận được của lời nói và cái không thể đạt được của ý niệm thì không liên can phần tinh hay thô của vật
.
396. Dĩ đạo quan chi, vật vô quý tiện; dĩ vật quan chi, tự quý nhi tương tiện; dĩ tục quan chi, quý tiện bất tại kỷ. Dĩ sai quan chi, nhân kỳ sở đại nhi đại chi, tắc vạn vật mạc bất đại; nhân kỳ sở tiểu nhi tiểu chi, tắc vạn vật mạc bất tiểu. [Trang Tử, Thu Thủy]
以道觀之,物無貴賤;以物觀之,自貴而相賤;以俗觀之,貴賤不在己。以差觀之,因其所大而大之,則萬物莫不大;因其所小而小之,則萬物莫不小。《莊子 • 秋水》
【Dịch】Theo phương diện Đạo mà xét, vật chẳng quý chẳng tiện. Từ bản thân của vật mà xét, mỗi vật tự cho mình quý và coi vật khác là tiện. Từ quan điểm thế tục mà xét, quý và tiện không nằm tại bản thân sự vật. Từ sự khác biệt của vật mà xét, do tầm cỡ lớn mà cho rằng chúng lớn thì vạn vật chẳng thứ nào mà không lớn; do tầm cỡ nhỏ mà cho rằng chúng nhỏ thì vạn vật chẳng thứ nào mà không nhỏ.

397. Chí tinh vô hình, chí đại bất khả vi. [Trang Tử, Thu Thủy]
至精無形,至大不可圍。《莊子 • 秋水》
【Dịch】Cái cực tinh tế thì vô hình, cái cực lớn thì không thể bị [cái khác] vây bọc được.

398. Niên bất khả cử, thời bất khả chỉ. Tiêu tức doanh hư, chung tắc hữu thủy. [Trang Tử, Thu Thủy]
年不可舉,時不可止。消息盈虛,終則有始。《莊子 • 秋水》
【Dịch】[Chỉ có] thời gian trôi đi thì không thể bắt đầu lại và không thể dừng lại, [còn các thứ nào] tiêu vong và phát khởi, đầy và rỗng, hễ chúng tận cùng thì sẽ trở lại ban đầu.

399. Nhân kỳ sở nhiên nhi nhiên chi, tắc vạn vật mạc bất nhiên. Nhân kỳ sở phi nhi phi chi, tắc vạn vật mạc bất phi. [Trang Tử, Thu Thủy]
因其所然而然之,則萬物莫不然。因其所非而非之,則萬物莫不非。《莊子 • 秋水》
【Dịch】Theo xu hướng thiên hạ cho điều gì là đúng mà ta bảo là đúng, thì vạn vật cái gì cũng đúng; theo xu hướng thiên hạ cho điều gì là sai, thì vạn vật cái gì cũng sai.

400. Đa nam tử tắc đa cụ, phú tắc đa sự, thọ tắc đa nhục. [Trang Tử, Thiên Địa]
多男子則多懼,富則多事,壽則多辱。《莊子 • 天地》
【Dịch】Càng nhiều con trai, càng thêm lo sợ. Càng giàu có, càng lắm sự sinh. Càng sống lâu, càng thêm nhục.

401. Tri kỳ ngu giả, phi đại ngu dã; tri kỳ hoặc giả, phi đại hoặc dã. [Trang Tử, Thiên Địa]
知其愚者,非大愚也;知其惑者,非大惑也。《莊子 • 天地》
【Dịch】Biết mình ngu tức không phải là quá ngu; biết mình bị dối lừa tức không bị lừa dối nhiều.

402. Thiên chi tiểu nhân, nhân chi quân tử; nhân chi quân tử, thiên chi tiểu nhân dã. [Trang Tử, Đại Tông Sư]
天之小人,人之君子;人之君子,天之小人也。《莊子 • 大宗師》
【Dịch】Tiểu nhân của Trời là quân tử của người; quân tử của người là tiểu nhân của trời.

403. Nhân mạc giám vu lưu thủy nhi giám vu chỉ thủy, duy chỉ năng chỉ chúng chỉ. [Trang Tử, Đức Sung Phù]
人莫鑒于流水而鑒于止水,唯止能止眾止。《莊子 • 德充符》
【Dịch】Người ta không soi bóng vào mặt nước trôi chảy, mà chỉ soi bóng vào mặt nước yên tĩnh. Chỉ có nước yên tĩnh mới có thể làm mọi người dừng lại để tìm sự yên tĩnh.

404. Phương sinh phương tử, phương tử phương sinh; phương khả phương bất khả, phương bất khả phương khả; nhân thị nhân phi, nhân phi nhân thị. [Trang Tử, Tề Vật Luận]
方生方死,方死方生;方可方不可,方不可方可;因是因非, 因非因是。《莊子 • 齊物論》
【Dịch】[Bất cứ vật gì] đang sống là đang chết, đang chết là đang sống; có thể là không thể, không thể là có thể. Nguyên do đúng là nguyên do sai, nguyên do sai là nguyên do đúng.

405. Phân dã giả, hữu bất phân dã; biện dã giả, hữu bất biện dã. [Trang Tử, Tề Vật Luận]
分也者,有不分也; 辯也者,有不辯也。《莊子 • 齊物論》
【Dịch】Trong mỗi sự phân tích có cái không phân tích được; trong mỗi sự biện luận có cái không biện luận được.

406. Xử minh giả bất kiến ám trung nhất vật, xử ám giả năng kiến minh trung khu sự. [Quan Doãn Tử, Nhất Vũ]
處明者不見暗中一物,處暗者能見明中區事。《關尹子 • 一宇》
【Dịch】Người ở nơi sáng sủa không thấy được vật gì trong bóng tối; người ở nơi tối có thể thấy được sự vật rất bé nhỏ trong ánh sáng.

407. Chuyên dụng thông minh, tắc công bất thành; chuyên dụng hối muội, tắc sự tất bội; nhất minh nhất hối, chúng chi sở tái. [Doãn Văn Tử Dật Văn]
專用聰明,則功不成;專用晦昧,則事必悖;一明一晦,眾之 所載。《尹文子佚文》
【Dịch】Chỉ thuần thông minh sẽ không thành công; chỉ thuần tối tăm sẽ gặp việc trái ý muốn. Vừa sáng vừa tối là cách làm mọi việc.

408. Mục tương miểu giả, tiên đổ thu hào; nhĩ tương lung giả, tiên văn nhuế phi, [...] cố vật bất chí giả tắc bất phản. [Liệt Tử, Trọng Ni]
目將眇者,先睹秋毫;耳將聾者,先聞蚋飛,…故物不至者則不反。《列子 • 仲尼》
【Dịch】Mắt sắp mờ thì trước tiên hãy nhìn vật cực bé, tai sắp điếc thì trước tiên hãy nghe tiếng muỗi bay vo ve. [...] Cho nên sự vật chưa phát triển đến chỗ cùng cực thì chưa quay trở lại.

409. Dục cương, tất dĩ nhu thủ chi; dục cường, tất dĩ nhược bảo chi. [Liệt Tử, Hoàng Đế]
欲剛必以柔守之;欲強必以弱保之。《列子 • 黃帝》
【Dịch】Muốn nó cứng thì lấy mềm giữ nó; muốn nó mạnh thì lấy yếu bảo vệ nó.

410. Thiên hạ lý vô thường thị, sự vô thường phi. Tiên nhật sở dụng, kim hoặc khí chi; kim chi sở khí, hậu hoặc dụng chi. [Liệt Tử, Thuyết Phù]
天下理無常是,事無常非。先日所用,今或棄之;今之所棄, 後或用之。《列子 • 說符》
【Dịch】Sự và lý trong thiên hạ không bao giờ đúng mãi hay sai mãi. Có thứ ngày trước áp dụng mà nay có người bỏ đi; cái ngày nay bỏ đi thì ngày sau có người áp dụng.

411. Đắc điểu giả, la nhất mục; nhất mục chi la, bất khả đắc điểu. [Doãn Văn Tử]
得鳥者,羅一目;一目之羅,不可得鳥。《尹文子》
【Dịch】Bắt được chim là nhờ ở một mắt lưới; nhưng cái lưới chỉ có một mắt lưới thì không thể bắt được chim.

412. Nhập thủy tăng nhu, hoài xú cầu phương, bất khả đắc dã. [Doãn Văn Tử]
入水憎濡,懷臭求芳,不可得也。《尹文子》
【Dịch】Vào nước ghét bị ướt, ôm giữ cái hôi thối cầu mong được thơm tho, điều đó là không thể.

413. Nhật bất tri dạ, nguyệt bất tri trú, nhật nguyệt vi minh nhi phất năng kiêm dã. [Hoài Nam Tử, Mậu Xưng Huấn]
日不知夜,月不知晝,日月為明而弗能兼也。《淮南子 • 繆稱訓》
【Dịch】Mặt trời không biết đến đêm tối, mặt trăng không biết đến ban ngày. Mặt trời và mặt trăng cho ánh sáng nhưng không thể cùng biết ban ngày và ban đêm của nhau.

414. Thủy tuy bình, tất hữu ba; hành tuy chính, tất hữu sai. [Hoài Nam Tử, Thuyết Lâm Huấn]
水雖平必有波;衡雖正必有差。《淮南子 • 說林訓》
【Dịch】Nước mặc dù yên tĩnh nhưng cũng có lúc gợn sóng, cái cân mặc dù thăng bằng nhưng cũng có lúc sai lệch.

415. Đắc vạn nhân chi binh, bất như văn nhất ngôn chi đáng; đắc Tuỳ Hầu chi châu, bất nhược đắc sự chi sở do; đắc Oa thị chi bích, bất nhược đắc sự chi sở thích. [Hoài Nam Tử, Thuyết Sơn Huấn]
得萬人之兵,不如聞一言之當;得隋侯之珠,不若得事之所由 ;得咼氏之璧,不若得事之所適。《淮南子。說山訓》
【Dịch】Có được quân binh vạn người không bằng nghe được một lời nói đúng đạo lý; có được ngọc châu Tùy Hầu không bằng có được nguyên do của sự việc; có được ngọc bích của họ Hoà không bằng có được sự thích đáng của sự việc.

416. Hoặc dự nhân nhi thích túc dĩ bại chi, hoặc hủy nhân nhi nãi phản dĩ thành chi. [Hoài Nam Tử, Nhân Gian Huấn]
或譽人而適足以敗之,或毀人而乃反成之。《淮南子 • 人間訓》
【Dịch】Có khi tán dương ai mà làm cho hắn bị thất bại; có khi hủy báng ai mà làm cho hắn được thành công.

417. Sự hoặc đoạt chi nhi phản dữ chi, hoặc dữ chi nhi phản thủ chi. [Hoài Nam Tử, Nhân Gian Huấn]
事或奪之而反與之,或與之而反取之。《淮南子 • 人間訓》
【Dịch】Sự đời, có khi tước đoạt ai cái gì thì trái lại làm cho họ được tặng cái khác; có khi cho ai cái gì thì trái lại ta nhận được cái khác.

418. Sơn sinh kim, phản tự khắc; mộc sinh đố, phản tự thực; nhân sinh sự, phản tự tặc. [Hoài Nam Tử, Thuyết Lâm Huấn]
山生金,反自刻;木生蠹,反自食;人生事,反自賊。《淮南子 • 說林訓》
【Dịch】Núi sinh vàng, trái lại nó bị tổn hao (do người ta khai thác vàng); gỗ sinh mối mọt, trái lại nó bị mọt ăn mòn; người phát sinh sự rắc rối, trái lại tự làm hại bản thân.

419. Dĩ cận luận viễn, dĩ tiểu tri đại. [Hoài Nam Tử, Phạm Luận Huấn]
以近論遠,以小知大。《淮南子 • 氾論訓》
【Dịch】Căn cứ cái gần mà suy luận ra cái xa xôi, căn cứ việc nhỏ mà biết việc lớn.

420. Nhất điều chi khô, bất tổn phồn lâm chi ông ái. [Bão Phác Tử, Bác Dụ]
一條之枯,不損繁林之蓊藹。《抱朴子 • 博喻》
【Dịch】Một cây khô không làm mất dáng vẻ sum suê um tùm của rừng cây dày đặc.

421. Giang hà chi lưu, bất năng doanh vô để chi khí dã. [Bão Phác Tử, Cực Ngôn]
江河之流,不能盈無底之器也。《抱朴子 • 極言》
【Dịch】Nước sông ngòi không thể đổ đầy một đồ vật để chứa nước mà không có đáy.

422. Tiểu tì bất túc dĩ tổn đại khí. [Bão Phác Tử, Bác Dụ]
小疵不足以損大器。《抱朴子 • 博喻》
【Dịch】Tì vết nhỏ không đủ để làm hại đồ vật lớn.

423. Tục hữu kiến du vân tây trì, nhi vị nguyệt chi đông hành. [Bão Phác Tử, Tắc Nan]
俗有見游雲西馳,而謂月之東行。《抱朴子 • 塞難》
【Dịch】Kẻ kiến thức thiển lậu hễ thấy mây bay về hướng tây thì nói mặt trăng đi về hướng đông.

Lê Anh Minh dịch

HỌA PHÚC 禍 福 – SINH TỬ 生 死

345. Họa hề phúc chi sở ỷ. Phúc hề họa chi sở phục. Thục tri kỳ cực. Kỳ vô chính. Chính phục vi kỳ, thiên phục vi yêu. Nhân chi mê, kỳ nhật cố cửu. Thị dĩ thánh nhân, phương nhi bất cát, liêm nhi bất quế, trực nhi bất tứ, quang nhi bất diệu. [Đạo Đức Kinh, chương 58]
禍兮,福之所倚,福兮,禍之所伏。孰知其極?其無正。正復為奇,善復為妖。人之迷,其日固久!是以聖人方而不割,廉而不劌,直而不肆,光而不耀。《道德經 • 第五十八章》
【Dịch】Họa là chỗ dựa của phúc; phúc là chỗ dựa của họa. Nào ai biết đâu là điểm cực hạn? Không có sự công chính sao? Công chính rồi lại thành gian tà; thiện rồi trở thành ác. Con người u mê đã quá lâu rồi! Cho nên thánh nhân tuy vuông vức mà không hại ai, tuy góc cạnh mà không tổn thương ai, tuy ngay thẳng nhưng không khắc nghiệt với ai, tuy sáng rỡ nhưng không chói lòa mắt ai.

346. Họa mạc đại vu bất tri túc. Cữu mạc đại vu dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ. [Đạo Đức Kinh, chương 46]
禍大于不知足﹔咎莫大于欲得。故知足之足,常足矣。《道德經 • 第四十六章》
【Dịch】Không có họa nào lớn bằng không biết đủ. Không có rủi nào lớn bằng tham cầu. Cho nên hễ biết đủ thì người ta sẽ luôn đầy đủ vậy.


347. An nguy tương dịch, họa phúc tương sinh. [Trang Tử, Tắc Dương]
安危相易,禍福相生。《莊子 • 則陽》
【Dịch】An và nguy biến đổi qua lại; phúc và họa nối tiếp nhau.
348. Bất vi phúc tiên, bất vi họa thủy. [Trang Tử, Khắc Ý]
不為福先,不為禍始。《莊子 • 刻意》
【Dịch】[Thánh nhân] không là nguyên do tạo phúc hay gây họa.

349. Phúc khinh hồ vũ, mạc chi tri tái; hoạ trọng hồ địa, mạc chi tri tị. [Trang Tử, Nhân Gian Thế]
福輕乎羽,莫之知載;禍重乎地,莫之知避。《莊子 • 人間世》
【Dịch】Phúc nhẹ như lông hồng mà không ai biết mang; hoạ nặng như đất mà không ai biết tránh.

350. Họa dữ phúc đồng môn, lợi dữ hại vi lân. [Hoài Nam Tử, Thuyên Ngôn Huấn]
禍與福同門,利與害為鄰。《淮南子 • 詮言訓》
【Dịch】Họa và phúc [ra vào] cùng một cửa; lợi và hại là láng giềng của nhau.

351. Duy bất cầu lợi giả vi vô hại, duy bất cầu phúc giả vi vô họa. [Hoài Nam Tử, Thuyên Ngôn Huấn]
惟不求利者為無害,惟不求福者為無禍。《淮南子 • 詮言訓》
【Dịch】Chỉ ai không cầu lợi mới không bị hại; chỉ ai không cầu phúc mới không bị họa.

352. Hoạn sinh vu đa dục, hại sinh vu phất bị. [Hoài Nam Tử, Mậu Xưng Huấn]
患生于多欲,害生于弗備。《淮南子 • 繆稱訓》
【Dịch】Hoạn nạn phát sinh do dục vọng nhiều; tai hại phát sinh do không phòng bị.

353. Sát kiến uyên ngư giả bất tường, trí liệu ẩn nặc giả hữu ương. [Liệt Tử, Thuyết Phù]
察見淵魚者不祥,智料隱匿者有殃。《列子 • 說符》
【Dịch】Săm soi cá ở vực sâu sẽ không tốt lành; biết rõ chuyện kín của thiên hạ sẽ gặp tai họa.

354. Hoạ mạc đại vu tử, phúc mạc đại vu sinh. Thị dĩ hữu danh chi danh táng ngã chi thác, vô danh chi danh dưỡng ngã chi trạch; hữu hoá chi hoá táng ngã chi tặc, vô hoá chi hoá dưỡng ngã chi phúc. [Vân Cấp Thất Thiêm, Thất Bộ Danh Giáo Số Yếu Ký]
禍莫大于死,福莫大于生。是以有名之名喪我之橐,無名之名養我之宅;有貨之貨喪我之賊,無貨之貨養我之福。 《雲笈七簽 • 七部名教數要記》
【Dịch】Không cái hoạ nào bằng cái chết; không cái phúc nào bằng sự sống. Cho nên, danh tiếng là cái túi chôn ta; vô danh là chỗ nuôi ta; tài hoá là cái hại thân ta; không có tài hoá là cái phúc để nuôi thân ta.

355. Xuất sinh nhập tử. Sinh chi đồ thập hữu tam. Tử chi đồ, thập hữu tam. Nhân chi sinh, động chi tử địa diệc thập hữu tam. Phù hà cố ? Dĩ kỳ sinh sinh chi hậu. [Đạo Đức Kinh, chương 50]
出生入死。生之徒,十有三﹔死之徒,十有三﹔人之生,動之死地,亦十有三。夫何故?以其生生之厚。《道德經 • 第50章》
【Dịch】Hễ sinh ra là bắt đầu chết. Có 13 nguyên do sống và chết. Con người sinh ra liền bị 13 nguyên do khiến phải chết. Tại sao thế? Vì con người muốn sống cho hết mức.

356. Phúc chi vi họa, họa chi vi phúc, hoá bất khả cực. [Hoài Nam Tử, Nhân Gian Huấn]
福之為禍,禍之為福,化不可極。《淮南子 • 人間訓》
【Dịch】Phúc chuyển thành họa, họa chuyển thành phúc, chúng chuyển hoá khôn cùng.

357. Thủ phi nghĩa chi tài, bất tị oán hận, thí nhược dĩ lậu phụ cứu cơ, trấm tửu giải khát, phi bất tạm bão nhi tử diệc cập chi hĩ! [Bão Phác Tử Nội Thiên, Vi Chỉ]
取非義之財,不避怨恨,譬若以漏脯救饑,鴆酒解渴,非不暫飽而死亦及之矣!《抱朴子內篇 • 微旨》
【Dịch】Giữ của cải phi nghĩa [để làm giàu] cũng giống như dùng thịt độc rượu độc để đỡ đói đỡ khát, nhưng chẳng tạm no lòng mà khiến cái chết xảy đến cho mình.

358. Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỳ tử dã kiên cường. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thúy kỳ tử dã khô cảo. Cố kiên cường giả, tử chi đồ, nhu nhược giả sinh chi đồ. [Đạo Đức Kinh, chương 76]
人之生也柔弱,其死也堅強。萬物草木之生也柔脆,其死也枯槁。故堅強者死之徒,柔弱者生之徒。《道德經 • 第七十六章》
【Dịch】Khi sống [thể chất] người ta mềm yếu; lúc chết thì [thi thể] cứng đơ. Vạn vật và thảo mộc khi sống thì mềm yếu; lúc chết thì khô héo. Cho nên cứng mạnh cùng một bọn với chết; mềm yếu cùng một bọn với sống.

359. Tử sinh, mệnh dã, kỳ hữu dạ đán chi thường, thiên dã. [Trang Tử, Đại Tông Sư]
死生,命也,其有夜旦之常,天也。《莊子 • 大宗師》
【Dịch】Sống và chết là số mệnh; sự kế tục mãi mãi giữa ngày và đêm là do trời.

360. Nhất thụ kỳ thành hình, bất vong dĩ đãi tận. Dữ vật tương nhận tương mỹ, kỳ hành tận như trì nhi mạc chi năng chỉ, bất diệc bi hồ! Chung thân dịch dịch nhi bất kiến kỳ thành công, niết nhiên bì dịch nhi bất tri kỳ sở qui, khả bất ai da! Nhân vị chi bất tử, hề ích! Kỳ hình hoá, kỳ tâm dữ chi nhiên, khả bất vị đại ai hồ! Nhân chi sinh dã, cố nhược thị mang hồ? Kỳ ngã độc mang, nhi nhân diệc hữu bất mang giả hồ? [Trang Tử, Tề Vật Luận]
一受其成形,不亡以待盡。與物相刃相靡,其行盡如馳而莫之 能止,不亦悲乎!終身役役而見其成功,苶然疲役而不知其所歸,可不哀邪!人謂之不死,奚益!其形化,其心與之然,可不謂大哀乎!人之生也,固若是芒乎?其我獨芒,而人亦有不芒者乎?《莊子 • 齊物論》
【Dịch】 Hễ ta có được hình hài rồi thì đến khi chết ta mới mất nó. Khi thân ta và ngoại vật va nhau hay cọ xát nhau, nó vận động hết mức như ngựa phi mà không gì cản nổi. Không buồn sao được! Suốt đời mãi vất vả mà chẳng thấy thành công, lại còn khốn đốn mỏi mệt, không biết về đâu. Đáng thương quá! Người ta cho rằng họ không chết, [nhưng sống mà như thế] liệu có ích gì? Khi hình hài lão hoá, tinh thần cũng suy theo. Không phải là quá buồn hay sao? Một kiếp người khó nói là có ngu muội hay không. Hay chỉ riêng tôi ngu muội, còn kẻ khác thì không?

361. Cận tử chi tâm, mạc sử phục dương dã. [Trang Tử, Tề Vật Luận]
近死之心,莫使復陽也。《莊子 • 齊物論》
【Dịch】 Tâm con người lúc gần chết thì không có gì khiến nó hồi dương được nữa.

362. Phù đại khối tái ngã dĩ hình, lao ngã dĩ sinh, dật ngã dĩ lão, tức ngã xuất tử. Cố thiện ngô sinh giả, nãi sở dĩ thiện ngô tử dã. [...] thiện yểu thiện lão, thiện thủy thiện chung. [Trang Tử, Đại Tông Sư]
夫大塊載我以形,勞我以生,佚我以老,息我出死。故善吾生者,乃所以善吾死也。…善妖善老,善始善終。《莊子 • 大宗師》
【Dịch】Trời đất cho ta hình hài, cho ta sống để lao nhọc, cho ta già để an nhàn, cho ta chết để an nghỉ. Cho nên sự sống của ta là tốt thì cái chết của ta cũng tốt. [...] yểu hay thọ, sinh hay tử đều tốt.

363. Nhân sinh thiên địa chi gian, nhược bạch câu chi quá khích, hốt nhiên nhi dĩ. Chú nhiên bột nhiên, mạc bất xuất yên; do nhiên liêu nhiên, mạc bất nhập yên. Dĩ hoá nhi sinh, hựu hoá nhi tử, sinh vật ai chi, nhân lũ bi chi. Giải kỳ thiên thao, huy kỳ thiên trật. Phân hồ uyển hồ, hồn phách tương vãng, nãi thân tòng chi. Nãi đại qui hồ! [Trang Tử, Tri Bắc Du]
人生天地之間,若白駒之過郤,忽然而已。注然勃然,莫不出焉;油然漻然,莫不入焉。已化而生,又化而死。生物哀之,人婁悲之。解其天韜,墮其天帙。紛乎宛乎,魂魄將往,乃身從之。乃大歸乎!《莊子 • 知北游》
【Dịch】Đời người giữa cõi trời đất khác nào bóng câu qua khe cửa, thoắt hiện thoắt mất. Vạn vật đột nhiên xuất hiện rồi đột nhiên quay vào. Do chuyển hoá mà sinh ra, rồi lại do chuyển hoá mà chết. Sinh vật lấy đó mà buồn rầu; con người lấy đó mà đau khổ. Cái chết chẳng qua là sự giải thoát khỏi sự bó buộc (như lấy cái cung ra khỏi bao cung hay lấy đồ vật ra khỏi cái túi trời). Khi chết, người ta phân vân hoảng loạn; hồn phách xuất đi và thân xác cũng chết theo. Chết là chuyến trở về quê cũ rất vĩ đại đấy thôi!

364. Dư ô hồ tri duyệt sinh chi phi hoặc da! Dư ô hồ tri ố tử chi phi nhược táng nhi bất tri qui giả da! Lệ chi cơ, ngải phong nhân chi tử dã. Tấn quốc thủy đắc chi dã, thế khấp triêm khâm. Cập kỳ chí vu vương sở, dữ vương đồng khuông sàng, thực sô hoạn, nhi hậu hối kỳ khấp dã. Dư ô hồ tri phù tử giả bất hối kỳ thủy chi kỳ sinh hồ? [Trang Tử, Tề Vật Luận]
予惡乎知說生之非惑邪!予惡乎知惡死之非弱喪而不知歸者邪!麗之姬艾封人之子也。晉國始得之也,涕泣沾襟。及其至于王所,與王同筐床,食芻豢,而後悔其泣也。予惡乎知夫死者不悔其始之蘄生乎?《莊子 • 齊物論》
【Dịch】Làm sao tôi biết ham sống chẳng phải là mê lầm? Làm sao tôi biết ghét chết chẳng phải là tâm trạng của đứa trẻ đang trở về nhà mà cứ tưởng mình bị lạc đường? Nàng Lệ Cơ – con gái quan trấn biên cương đất Ngải (của nước Lệ Nhung) mà vua Tấn Hiến Công cướp về làm thiếp – đã khóc ướt đẫm vạt áo. Đến khi về cung vua, cùng vua vui hưởng giường chiếu êm ấm và các món thịt thà ngon béo, bấy giờ nàng mới tiếc cho những giọt lệ ngày trước. Làm sao tôi biết kẻ chết không hối tiếc trước kia đã từng ham sống?

365. Bỉ dĩ sinh vi phụ chuế huyền vưu, dĩ tử vi quyết hoàn hội ung. Phù nhược nhiên giả, hựu ô tri tử sinh tiên hậu chi sở tại? [Trang Tử, Đại Tông Sư]
彼以生為附贅縣疣,以死為決(疒+丸)潰癰。夫若然者,又惡知死生先後之所在?《莊子。大宗師》
【Dịch】Họ coi sự sống [nặng nề] như cái bướu dính vào thân lâu ngày, và xem cái chết [thoải mái] như cái ung nhọt bị vỡ. Nếu quả đúng như vậy, làm sao họ biết được giữa sống và chết cái nào có trước cái nào có sau?
366. Sinh dã tử chi đồ, tử dã sinh chi thủy, thục tri kỳ kỷ? Nhân chi sinh, khí chi tụ dã. Tụ tắc vi sinh, tán tắc vi tử. Nhược tử sinh vi đồ, ngô hựu hà hoạn? Cố vạn vật nhất dã. [Trang Tử, Tri Bắc Du]
生也死之徒,死也生之始,孰知其紀?人之生,氣之聚也。聚則為生,散則為死。若死生為徒,吾又何患?故萬物一也。《莊子 • 知北游》
【Dịch】Sự sống tiếp nối cái chết và cái chết khởi đầu sự sống, nhưng nào ai biết qui luật của chúng? Đời người chỉ là sự tích tụ của khí. Khí tụ lại thì ta sống, khí phân tán thì ta chết. Đã biết sống và chết tiếp nối nhau, ta còn lo lắng chi? Do đó vạn vật cùng một thể.

367. Thục năng dĩ vô vi thủ, dĩ sinh vi tích, dĩ tử vi khao; thục tri tử sinh tồn vong chi nhất thể giả, ngô chi hữu hĩ! [Trang Tử, Đại Tông Sư]
孰能以無為首,以生為脊,以死為尻;孰知死生存亡之一体者 ,吾之友矣。《莊子 • 大宗師》
【Dịch】Ai có thể xem hư vô là đầu, sự sống là xương sống, cái chết là mông đít? Ai mà biết được sống-chết và còn-mất chỉ là một thì người đó là bạn của ta.

368. Minh hồ thản đồ, cố sinh nhi bất duyệt, tử nhi bất hoạ; tri chung thủy chi bất khả cố dã. [Trang Tử, Thu Thủy]
明乎坦涂,故生而不說,死而不禍;知終始之不可故也。《莊子 • 秋水》
【Dịch】Ai hiểu được con đường bằng phẳng rồi thì khi sống không cảm thấy vui mà lúc chết cũng không cho là tai họa. Họ biết rằng kết thúc (tử) và khởi đầu (sinh) nào có cố định đâu.

369. Tử sinh diệc đại hĩ. [Trang Tử, Đức Sung Phù]
死生亦大矣。《莊子 • 德充符》
【Dịch】Chết và sống cũng là vấn đề lớn.

370. Nhân chi sinh dã, dữ ưu câu sinh. [Trang Tử, Chí Lạc]
人之生也,與憂俱生。《莊子 • 至樂》
【Dịch】Con người khi sinh ra là sinh cùng với ưu sầu.
371. Nhân tư tri sinh chi lạc, vị tri sinh chi khổ; tri lão chi bị, vị tri lão chi dật; tri nhân chi ố, vị tri tử chi tức dã. Án Tử viết: «Thiện tai, cổ chi hữu tử dã, nhân giả tức yên, bất nhân giả phục yên.» Tử dã giả, đắc chi kiểu dã. Cổ giả vị tử nhân vi qui nhân, phù ngôn tử nhân vi qui nhân, tắc sinh nhân vi hành nhân hĩ. Hành nhi bất tri qui, thất gia giả dã. Nhất nhân thất gia, nhất thế phi chi; thiên hạ thất gia, mạc tri phi yên. [Liệt Tử, Thiên Thụy]
人胥知生之樂,未知生之苦;知老之備,未知老之佚;知人之惡,未知死之息也。晏子曰:『善哉,古之有死也,仁者息焉,不仁者伏焉。』死也者,德之徼也。古者謂死人為歸人,夫言死人為歸人,則生人為行人矣。行而不知歸,失家者也。一人失家,一世非之;天下失家,莫知非焉。《列子 • 天瑞》
【Dịch】Người đời đều biết sống là vui mà chưa biết sống là khổ; đều biết già là suy nhược mà chưa biết già là an vui; đều biết cái người ta ghét là chết mà chưa biết chết là nghỉ ngơi. Án Tử nói: «Tốt thay, từ xưa [đến nay] đã có cái chết, để người nhân đức được nghỉ ngơi và khiến kẻ bất nhân phải chịu báo ứng.» Cái chết là cái đạt được sau cùng. Người xưa gọi kẻ chết là «qui nhân» (người trở về). Đã gọi kẻ chết là «qui nhân» ắt kẻ đang sống là «hành nhân» (kẻ lữ hành). Bôn ba tha phương không biết quay về, tức là kẻ mất nhà. Nếu chỉ có một người mất nhà, người đời sẽ chê hắn là sai; nhưng nếu cả thiên hạ đều mất nhà, nào ai biết là sai?

372. Nhân tự sinh chí chung đại hoá hữu tứ: Anh hài dã, thiếu tráng dã, lão mạo dã, tử vong dã. Kỳ tại anh hài, khí chuyên chí nhất, hoà chi chí dã, vật bất thương yên, đức mạc gia yên; kỳ tại thiếu tráng, tắc huyết khí phiêu dật, dục lự sung khởi, vật sở công yên, đức cố suy yên; kỳ tại lão mạo, tắc dục lự nhu yên, thể tương hưu yên, vật mạc tiên yên, tuy vị cập anh hài chi toàn, phương vu thiểu tráng gian hĩ; kỳ tại tử vong dã, tắc chi vu tức yên, phản kỳ cực hĩ. [Liệt Tử, Thiên Thụy]
人自生至終大化有四﹕嬰孩也,少壯也,老耄也,死亡也。其在嬰孩,氣專志一,和之至也,物不傷焉,德莫加焉;其在少壯,則血氣飄溢,欲慮充起,物所攻焉,德故衰焉;其在老耄 ,則欲慮柔焉,体將休焉,物莫先焉,雖未及嬰孩之全,方于少壯間矣;其在死亡也,則之于息焉,反其極矣。《列子 • 天瑞》
【Dịch】Con người từ khi sinh ra đến lúc chết phải trải qua bốn sự chuyển hoá lớn: ấu thơ, trưởng thành, tuổi già, chết. Người ta khi ấu thơ, tâm chí chuyên nhất, khí huyết thông sướng, đạt tới sự hài hoà cao nhất, nên ngoại vật không làm hại được, đức không phải thêm. Người ta khi trưởng thành, khí huyết rất mạnh, ham muốn và tư lự nhiều, nên bị ngoại vật tác động, đức vì thế mà suy. Người ta khi già, ham muốn và tư lự bớt đi, thân thể suy nhược, ngoại vật không tranh hơn, tuy chưa thuần chân hoàn toàn như hồi ấu thơ nhưng cũng ngang với giai đoạn ấu thơ và trưởng thành. Người ta khi chết, tức là nghỉ ngơi, trở về nơi cuối cùng.

373. Khả dĩ sinh nhi sinh, thiên phúc dã; khả dĩ tử nhi tử, thiên phúc dã; khả dĩ sinh nhi bất sinh, thiên phạt dã; khả dĩ tử nhi bất tử, thiên phạt dã. Khả dĩ sinh, khả dĩ tử, đắc sinh đắc tử, hữu hĩ; bất khả dĩ sinh, bất khả dĩ tử, hoặc tử hoặc sinh, hữu hĩ. Chung nhi sinh sinh tử tử, phi vật phi ngã, giai mệnh dã, trí chi sở vô nại hà. Cố viết: yểu nhiên vô tế, thiên đạo tự hội; mặc nhiên vô phân, thiên đạo tự vận. Thiên địa bất năng phạm, thánh trí bất năng can, quỷ mị bất năng khi, tự nhiên giả mặc chi thành chi, bình chi ninh chi, tương chi nghinh chi. [Liệt Tử, Lực Mệnh]
可以生而生,天福也;可以死而死,天福也;可以生而不生,天罰也;可以死而不死,天罰也。可以生,可以死,得生得死,有矣。不可以生,不可以死,不可以死,或死或生,有矣。終而生生死死,非物非我,皆命也,智之所無奈何。故曰﹕窈然無際,天道自會;漠然無分,天道自運。天地不能犯,聖智不能干,鬼魅不能欺自然者默之成之,平之寧之,將之迎之。《列子 • 力命》
【Dịch】Phải sống mà sống hoặc phải chết mà chết, đó đều là phúc trời. Dở sống dở chết, đó là sự trừng phạt của trời. Có thể sống, có thể chết, được sống, được chết, điều đó có xảy ra. Không thể sống, không thể chết, hoặc sống, hoặc chết, điều đó có xảy ra. Sống hay chết, không phải là do ngoại vật khiến vậy hay do bản thân muốn vậy, mà đều là do số mệnh. Biết thế mà chẳng làm gì được. Cho nên nói: mịt mờ không ranh giới, qui luật tự nhiên tự tụ hội, tĩnh lặng không phân biệt, qui luật tự nhiên tự vận chuyển. Trời đất không thể mạo phạm nó, trí tuệ thánh nhân không thể can thiệp nó, quỷ quái không thể khinh thường nó. Qui luật tự nhiên thanh tĩnh mà tạo thành vạn vật; an bình, yên ổn mà không gì không làm; thuận ứng vạn vật không chút sơ sót.

374. Sinh phi quý chi sở năng tồn, thân phi ái chi sở năng hậu; sinh diệc phi tiện chi sở năng yểu, thân diệc phi khinh chi sở năng bạc. Cố quý chi hoặc bất sinh, tiện chi hoặc bất tử, ái chi hoặc bất hậu, khinh chi hoặc bất bạc, thử tự phản dã, phi phản dã, thử tự sinh tự tử, tự hậu tự bạc. Hoặc quý chi nhi sinh, hoặc tiện chi nhi tử, hoặc ái chi nhi hậu, hoặc khinh chi nhi bạc, thử tự thuận dã, phi thuận dã, thử diệc tự sinh tự tử, tự hậu tự bạc. Chúc Hùng ngứ Văn Vương viết: «Tự trường phi sở tăng, tự đoản phi sở tổn, toán chi sở vong nhược hà?» Lão Đam ngứ Quan Doãn viết: «Thiên chi sở ố, thục tri kỳ cố?» Ngôn nghinh thiên ý, sủy lợi hại bất như kỳ dĩ. [Liệt Tử, Lực Mệnh]
生非貴之所能存 , 身非愛之所能厚 , 生亦非賤之所能夭 , 身亦非輕之所能薄。故貴之或不生 , 賤之或不死 , 愛之或不厚 , 輕之或不薄 , 此似反也 , 非反也,此自生自死 , 自厚自薄。或貴之而生 , 或賤之而死 , 或愛之而厚 , 或輕之而薄 , 此似順也 , 非順也 , 此亦自生自死 , 自厚自薄。鬻熊語文王曰 :『自長非所增,自短非所損,算之所亡若何?』老聃語關尹曰:『天之所惡,孰知其故?』言迎天意,揣利害不如其已。《列子 • 利命》
【Dịch】Không phải vì ta quý sự sống mà ta sống; không phải vì ta yêu cái thân này mà nó mạnh. Không phải vì ta tởm cuộc sống mà ta chết non; không phải vì ta khinh cái thân này mà nó yếu. Cho nên có khi ta quý sự sống mà không sống, có khi ta tởm nó mà không chết; có khi ta yêu cái thân mà nó không mạnh, có khi ta khinh nó mà nó không yếu. Điều này tưởng nghịch lý nhưng lại không. Nó tự sống tự chết, tự mạnh tự yếu. Có khi quý sự sống mà sống, tởm nó mà chết; yêu thân mà mạnh, khinh nó mà yếu. Điều này tưởng thuận lý nhưng lại không. Nó cũng tự sống tự chết, tự mạnh tự yếu. Chúc Hùng bảo Văn Vương: «Muốn dài vị tất đã dài, muốn ngắn vị tất đã ngắn, tính toán mà có làm được gì đâu.» Lão Tử bảo Quan lệnh Doãn Hỉ: «Cái mà trời ghét, nào ai biết duyên cớ?» Ý nói ta phải đón trước thiên ý, suy xét lợi hại mà không theo cách thức chúng đã xảy ra.

375. Sinh tương lân, tử tương tổn. [Liệt Tử, Dương Chu]
生相憐,死相損。《列子 • 楊朱》
【Dịch】Con người khi sống thì thương xót nhau, khi chết thì làm đau lòng nhau.

Lê Anh Minh dịch

DANH LỢI 名 利 – ĐẮC THẤT 得 失

337. Danh dữ thân thục thân, thân dữ hóa thục đa. Đắc dữ vong thục bệnh. Thị cố, thậm ái tắc thậm phí. Đa tàng tất hậu vong. Tri túc bất nhục. Tri chỉ bất đãi. Khả dĩ trường cửu. [Đạo Đức Kinh, chương 44]
名與身孰親?身與貨孰多?得與亡孰病?是故,甚愛必甚費,多藏必厚亡。知足不辱,知止不殆,可以長久。《道德經 • 第四十四章》
【Dịch】Danh với thân, cái nào quý hơn? Thân với của, cái nào trọng hơn? Được với mất, cái nào khổ hơn? Cho nên, yêu lắm ắt hao phí nhiều. Chứa lắm ắt mất nhiều. Biết đủ sẽ không nhục. Biết dừng sẽ không nguy. Có thể trường cửu.

338. Hoặc sính vu Trang Tử, Trang Tử ứng kỳ sứ viết: «Tử kiến phù hy ngưu hồ? Ý dĩ văn tú, tự dĩ sô thúc. Cập kỳ khiên nhi nhập vu đại miếu, tuy dục vi cô độc, kỳ khả đắc hồ!» [Trang Tử, Liệt Ngự Khấu]
或聘于莊子,莊子應其使曰﹕子見夫犧牛乎?衣以文繡,食以芻叔。及其牽而入于大廟,雖欲為孤犢,其可得乎!《莊子 • 列御寇》
【Dịch】Có vua nọ mời Trang Chu [ra làm quan], Trang Chu trả lời sứ giả: «Ông có từng thấy con bò để tế không? Người ta mặc vải thêu hoa cho nó, cho nó ăn cỏ và đậu lớn. Rồi ngày kia nó bị dắt đến nhà Thái Miếu [để cúng tế]. Bấy giờ dù nó có muốn trở lại làm con bê cô đơn, liệu có thể được chăng?»

339. Cử thế nhi dự chi nhi bất gia khuyến, cử thế nhi phi chi bất gia trở, định hồ nội ngoại chi phân, biện hồ vinh nhục chi cảnh, tư dĩ hĩ. [Trang Tử, Tiêu Dao Du]
舉世而譽之而不加勸,舉世而非之不加沮,定乎內外乎分,辯乎榮辱乎境,斯已矣。《莊子 • 逍遙游》
【Dịch】Dù cả thế gian khen ngợi, ông cũng không nỗ lực thêm; dù cả thế gian chê bai ông cũng không thối chí nản lòng; ông đã phân biệt được giữa trong và ngoài, đã xác định được ranh giới giữa vinh và nhục. Ông ta đã như thế rồi.

340. Tử Trương vấn vu Mãn Cẩu Đắc viết: «Cái bất vi hạnh? Vô hạnh tắc bất tín, bất tín tắc bất nhiệm, bất nhiệm tắc bất lợi. Cố quan chi danh, kế chi lợi, nhi nghĩa chân thị dã. Nhược khí danh lợi, phản chi vu tâm, tắc phu sĩ chi vi hạnh, bất khả nhất nhật bất vi hồ!» Mãn Cẩu Đắc viết: «Vô sỉ giả phú, đa tín giả hiển. Phù danh lợi chi đại giả, cơ tại vô sỉ nhi tín. Cố quan chi danh, kế chi lợi, nhi tín chân thị dã. Nhược khí danh lợi, phản chi vu tâm, tắc phu sĩ chi vi hạnh, bão kỳ thiên hồ!» [Trang Tử, Đạo Chích]
子張問滿苟得曰 :『蓋不為行?無行則不信,不信則不任,不任則不利。故觀之名,計之利,而義真是也。若棄名利,反之于心,則夫士之為行,不可一日不為乎!』 滿苟得曰 :『 無恥者富,多信者顯。夫名利之大者,几在無恥而信。故觀之名,計之利,而信真是也。若棄名利,反之于心則夫士之為行,抱其天乎! 』 《莊子 • 盜跖》
【Dịch】Tử Trương hỏi Mãn Cẩu Đắc: «Sao anh không tu dưỡng phẩm hạnh? Không có phẩm hạnh thì anh không được ai tin; không được ai tin, thì anh không được giao việc; không được giao việc thì anh đâu có lợi lộc gì. Cho nên, xét về danh và lợi, thì nghĩa mới là điều đúng. Nếu vất bỏ danh lợi, chỉ phản tỉnh nơi tâm, sẽ thấy kẻ sĩ tu dưỡng phẩm hạnh đâu chỉ có một ngày.» Mãn Cẩu Đắc đáp: «Kẻ vô sỉ thì giàu, kẻ lắm người tin tưởng thì nổi danh. Do đó cái lớn lao của danh lợi gần như phát xuất từ vô sỉ và được tin tưởng. Cho nên xét theo danh và lợi thì được tin tưởng mới là điều đúng. Nếu vất bỏ danh lợi, chỉ phản tĩnh nơi tâm, sẽ thấy kẻ sĩ tu dưỡng phẩm hạnh chỉ ôm giữ được thiên tính mà thôi.»

341. Tri Hoà viết: «Bình vi phúc, hữu dư vi hại giả, vật mạc bất nhiên, nhi tài kỳ thậm giả dã. Kim phú nhân, nhĩ doanh chung cổ quản dược chi thanh, khẩu khiếm vu sô hoạn lao lễ chi vị, dĩ cảm kỳ ý, di vong kỳ nghiệp, khả vị loạn hĩ; cai nịch vu bằng khí, nhược phụ trọng hạnh nhi thượng bản, khả vị khổ hĩ; tham tài nhi thủ uỷ, tham quyền nhi thủ kiệt, tĩnh cư tắc nịch, thể trạch tắc bằng, khả vị tật hĩ; vi dục phú tựu lợi, cố mãn nhược đổ nhĩ nhi bất tri tỵ, thả bằng nhi bất xả, khả vị nhục hĩ; tài tích nhi vô dụng, phục ưng nhi bất xả, mãn tâm thích tiêu, cầu ích nhi bất chỉ, khả vị ưu hĩ; nội tắc nghi kiếp thỉnh chi tắc, ngoại tắc úy khấu đạo chi hại, nội chu lâu sơ, ngoại bất cảm độc hành, khả vị úy hĩ. Thử lục giả, thiên hạ chi chí hại dã, giai di vong nhi bất tri sát. cập kỳ hoạn chí, cầu tận tính kiệt tài đan dĩ phản nhất nhật chi vô cố nhi bất khả đắc dã. Cố quan chi danh tắc bất kiến, cầu chi lợi tắc bất đắc. Liêu ý tuyệt thể nhi tranh thử, bất diệc hoặc hồ!» [Trang Tử, Đạo Chích]
知和曰 :『平為福,有餘為害者,物莫不然,而財其甚者也。今富人,耳營鐘鼓管龠之聲,口嗛于芻豢醪醴之味,以感其意 ,遺忘其業,可謂亂矣;侅溺于馮氣,若負重行而上阪,可謂苦矣;貪財而取慰 , 貪權而取竭,靜居則溺,体澤則馮,可謂疾矣;為欲富就利,故滿若堵耳而不知避,且馮而不舍,可謂辱矣;財積而無用,服膺而不舍,滿心戚醮,求益而不止,可謂憂矣;內則疑劫請之賊,外則畏寇盜之害,內周樓疏,外不敢獨行,可謂畏矣。此六者,天下之至害也,皆遺忘而不知察 。及其患至 , 求盡性竭財單以反一日之無故而不可得也。故觀之名則不見,求之利則不得。繚意絕体而爭此,不亦惑乎! 』
《莊子 • 盜跖》
【Dịch】Tri Hoà nói: «Quân bình là phúc, có dư là họa, vật nào cũng thế, nhất là đối với tài sản. Ngày nay lỗ tai bọn nhà giàu ù tiếng đàn sáo chuông trống, miệng sặc mùi vị thịt thà và rượu ngọt nồng; chúng làm hại ý chí, khiến công việc bỏ bê. Đó gọi là loạn! Ăn nhiều nghẹn họng, đầy hơi, đi đứng vất vả như vác nặng mà leo dốc núi. Đó gọi là khổ! Tham tiền tài tới mức lâm bệnh; tham quyền tới mức hao kiệt tinh thần; ở yên thì chìm đắm; thân thể béo ú phải vịn nương. Đó gọi là bệnh! Muốn làm giàu thì phải kiếm lợi, nên có đầy đủ mà bít tai [không nghe lời đàm tiếu] và không biết tránh né; cứ bám vào đó mà không buông xả. Đó gọi là nhục! Tiền tài tích chứa cho đầy mà không dùng hết, canh cánh trong lòng không buông xả; lòng đầy phiền não; mong ích lợi mãi không thôi. Đó gọi là ưu phiền! Lại lo trong nhà có trộm đạo và bọn cướp bên ngoài đánh vào; nên trong nhà thì làm cửa nẻo có lưới bao bọc; còn ra ngoài thì không dám đi một mình. Đó gọi là sợ hãi! Sáu điều đó [loạn, khổ, bệnh, nhục, ưu phiền, sợ hãi] là hết sức nguy hại trong thiên hạ, nhưng họ đều quên mà không biết xem xét; cho đến lúc hoạn nạn lại mong đánh đổi hết tất cả để mong một ngày yên ổn cũng không được. Cho nên xét về danh thì không thấy, xét về lợi thì không được. Tâm thần mê loạn, gắng sức để tranh giành đến nỗi như vậy, chẳng phải là lầm lẫn hay sao?»

342. Trang Tử viết: «Tần vương hữu bệnh triệu y. Phá ung hội toà giả đắc xa nhất thặng, thỉ trĩ giả đắc xa ngũ thặng, sở trị dũ hạ, đắc xa dũ đa.» [Trang Tử, Liệt Ngự Khấu]
莊子曰 :『秦王有病召醫。破癰潰痤者得車一乘,舐痔者得車五乘,所治愈下,得車愈多。 』 《莊子。列御寇》
【Dịch】Trang Tử trả lời: «Khi vua Tần bị bệnh, thái y được vua triệu đến phá một cái ung hay nặn một cái mụn thì được một cỗ xe; ai liếm trĩ của vua thì được năm cỗ xe. Cách trị càng hèn hạ thì càng có nhiều xe.»

343. Cổ chi sở vị đắc chí giả, phi hiên miện chi vị dã, vị kỳ vô dĩ ích kỳ lạc nhi dĩ hĩ. Kim chi sở vị đắc chí giả, hiên miện chi vị dã. Hiên miện tại thân, phi tính mệnh dã, vật chi thưởng lai, ký giả dã. Ký chi, kỳ lai bất khả ngữ, kỳ khứ bất khả chỉ. Cố bất vi hiên miện tứ chí, bất vi cùng ước xu tục, kỳ lạc bỉ dữ thử đồng, cố vô ưu nhi dĩ hĩ! [Trang Tử, Thiện Tính]
古之所得志者,非軒冕之謂也,謂其無以益其樂而已矣。今之所謂得志者,軒冕之謂也。軒冕在身,非性命也,物之儻來,寄者也。寄之,其來不可圉,其去不可止。故不為軒冕肆志,不為窮約趨俗,其樂彼與此同,故無憂而已矣!《莊子 • 繕性》
【Dịch】Ngày xưa gọi là ‘đắc chí’ chẳng phải là việc có chức tước và bổng lộc; mà là không làm tăng niềm vui cho mình nữa. Ngày nay gọi là ‘đắc chí’ chính là việc có chức tước và bổng lộc. Nhưng chức tước và bổng lộc thuộc về thân xác; chẳng liên quan gì đến tính mệnh ta. Ngoại vật ngẫu nhiên đến, chỉ là tạm thời; vì tạm thời nên khi chúng đến ta không chế ngự chúng được và khi chúng đi ta không ngăn chận chúng được. Do đó, chúng ta không nên vì chức tước bổng lộc mà khoái chí, cũng đừng vì cùng khốn mà buông theo thói đời.

344. Dương Chu viết: «Hành thiện bất dĩ vi danh, nhi danh tòng chi; danh bất dữ lợi kỳ, nhi lợi qui chi; lợi bất dữ tranh kỳ, nhi tranh cập chi; cố quân tử tất thận vi thiện.» [Liệt Tử, Thuyết Phù]
楊朱曰 :『行善不以為名,而名從之;名不與利期,而利歸之;利不與爭期,而爭及之;故君子必慎為善。 』 《列子 • 說符》
【Dịch】Dương Chu nói: «Làm việc thiện không phải vì danh, mà danh sẽ đi theo nó; danh không mong lợi, nhưng lợi sẽ quy tụ về; lợi không mong tranh chấp, nhưng tranh chấp sẽ đến; do đó bậc quân tử phải thận trọng khi làm việc thiện.»

Lê Anh Minh dịch

TƯ KHẢO 思 考 – TRỊ THẾ 治 世

313. Bất dục dĩ tĩnh, thiên hạ tương tự định. [Đạo Đức Kinh, chương 37]
不欲以靜,天下將自定。《道德經 • 第三十七章》
【Dịch】Không ham muốn dễ được yên tĩnh, do đó thiên hạ sẽ ổn định.


314. Trị đại quốc, nhược phanh tiểu tiên. [Đạo Đức Kinh, chương 60]
治大國,若烹小鮮。《道德經 • 第六十章》
【Dịch】Cai trị một nước lớn giống như nấu con cá nhỏ.

315. Kỳ an dị trì kỳ vị triệu dị mưu. Kỳ thúy dị phán, kỳ vi dị tán. Vi chi ư vị hữu, trị chi ư vị loạn. [Đạo Đức Kinh, chương 64]
其安易持,其未兆易謀,其脆易泮,其微易散。為之於未有,治之於未亂。《道德經 • 第六十四章》
【Dịch】Vật ở yên thì dễ cầm; vật chưa hiện điềm báo hiệu thì dễ lo liệu; vật giòn thì dễ vỡ; vật nhỏ thì dễ phân tán. Hành động trước khi sự việc xảy ra; trị an trước khi loạn lạc nổi lên.

316. Dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị. [Đạo Đức Kinh, chương 75]
民之難治,以其上之有為,是以難治。《道德經 • 第七十五章》
【Dịch】Dân khó trị, là do người trên thích chuyện hữu vi, cho nên dân khó trị.

317. Thiên đạo vô thân, hằng dữ thiện nhân. [Đạo Đức Kinh, chương 79]
天道無親,恆與善人。《道德經 • 第七十九章》
【Dịch】Thiên đạo không thiên ái, mà thường ban ân cho người lành.

318. Tiểu quốc quả dân, sử hữu thập bách nhân chi khí nhi bất dụng. Sử dân trọng tử nhi bất viễn tỷ. Tuy hữu chu dư, vô sở thừa chi. Tuy hữu giáp binh, vô sở trần chi. Sử dân phục kết thằng nhi dụng chi. Cam kỳ thực, mỹ kỳ phục, an kỳ cư, lạc kỳ tục. Lân quốc tương vọng. Kê khuyển chi thanh tương văn, Dân chí lão tử, bất tương vãng lai. [Đạo Đức Kinh, chương 80]
小國寡民。使有十百人之器而不用﹔使民重死而不遠徙。雖有舟輿,無所乘之﹔雖有甲兵,無所陳之。使民復結繩而用之。甘其食,美其服,安其居,樂其俗。鄰國相望,雞犬之聲相聞 ,民至老死,不相往來。《道德經 • 第八十章》
【Dịch】Nước nhỏ, dân ít. Dù có khí giới đủ cho 10 hay 100 người thì cũng không dùng đến. Dạy dân coi trọng cái chết để họ khỏi đi xa. Tuy có xe thuyền, mà chẳng khi dùng. Tuy có giáp binh, mà chẳng phô trương. Khiến dân trở lại việc thắt nút mà dùng. Ăn thấy ngon, mặc thấy đẹp, ở thấy yên, sống thấy sướng. Tuy các nước cận kề, nhìn thấy nhau, gà kêu chó sủa ở nước này thì nước kia đều nghe, nhưng người dân cho đến lúc già chết cũng chẳng qua lại thăm nhau.

319. Dân chi nan trị, dĩ kỳ trí đa. Cố dĩ trí trị quốc, quốc chi tặc. Bất dĩ trí trị quốc, quốc chi phúc. [Đạo Đức Kinh, chương 65]
民之難治,以其智多。故以智治國,國之賊﹔不以智治國,國之福。《道德經 • 第六十五章》
【Dịch】Dân khó trị là vì họ lắm mưu trí. Cho nên dùng mưu trí trị nước tức là hại nước; không dùng mưu trí trị nước tức là ích nước.

320. Quý dĩ thân vi thiên hạ giả, tắc khả ký vu thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ giả, nãi khả dĩ thác vu thiên hạ. [Đạo Đức Kinh, chương 13]
貴以身為天下者,則可寄于天下。愛以身為天下者,乃可以托于天下。《道德經 • 第十三章》
【Dịch】Ai quý bản thân hơn việc thống trị thiên hạ thì người ta có thể gởi gấm thiên hạ cho. Ai yêu bản thân hơn việc thống trị thiên hạ thì người ta có thể gởi gấm thiên hạ cho.

321. Đại thánh chi trị thiên hạ dã, dao đãng dân tâm, sử chi thành giáo dịch tục, cử diệt kỳ tặc tâm nhi giai tiến kỳ độc chí. Nhược tính chi tự vi, nhi dân bất tri kỳ sở do nhiên. Nhược nhiên giả, khởi huống Nghiêu Thuấn chi giáo dân minh hãnh nhiên đệ chi tai? Dục đồng hồ đức nhi tâm cư hĩ! [Trang Tử, Thiên Địa]
大聖之治天下也,搖蕩民心,使之成教易俗,舉滅其賊心而皆進其獨志。若性之自為,而民不知其所由然。若然者,豈兄堯舜之教民溟涬弟之哉?欲同乎德而心居矣。《莊子 • 天地》
【Dịch】Bậc đại thánh cai trị dân thì cổ vũ tâm trí của họ, khiến họ thi hành các giáo huấn của ngài mà thay đổi thói xưa, diệt bỏ lòng hung ác của họ và giúp họ tiến bước theo ý chí riêng của họ. Họ tự làm như thể phát xuất từ bản tính mình nhưng họ không hiểu nguyên do tại sao. Nếu vậy, đâu cần gì cách dạy dân của Nghiêu Thuấn hay các sự xếp đặt hỗn độn? Chỉ mong hoà đồng với đức và tâm an tĩnh trong đó mà thôi.

322. Phù dân bất nan tụ dã, ái chi tắc thân, lợi chi tắc chí, dự chi tắc khuyến, trí kỳ sở ác tắc tán. [Trang Tử, Từ Vô Quỷ]
夫民不難聚也,愛之則親,利之則至,譽之則勸,致其所惡則散。《莊子 • 徐無鬼》
【Dịch】Ngày nay dễ dàng tụ tập dân chúng. Yêu dân, thì họ sẽ yêu lại ngươi; làm lợi cho họ thì họ sẽ đến với ngươi; khen ngợi họ thì họ sẽ phấn khởi và làm vui lòng ngươi; hễ khiến họ làm cái mà họ ghét thì họ sẽ phân tán.

323. Bình giả, thủy đình chi thịnh dã. Kỳ khả dĩ vi pháp dã, nội bảo chi nhi ngoại bất đãng dã. Đức giả, thành hòa chi tu dã. Đức bất hình giả, vật bất năng ly dã. [Trang Tử, Đức Sung Phù]
平者,水停之盛也。其可以為法也,內保之而外不蕩也。德者 ,成和之修也。德不形者,物不能離也。《莊子 • 德充符》
【Dịch】Cái bằng phẳng là sự yên tĩnh của mặt nước. Nó có thể là phép tắc cho ta noi theo. Bên trong thì nó bảo toàn yên ổn, bên ngoài thì không gì làm nó xao động. Đức là sự tu dưỡng để hoà thuận tự nhiên. Đức vô hình mà không vật nào lìa khỏi nó được.

324. Lễ nghĩa pháp độ giả, ứng thời nhi biến giả dã. [Trang Tử, Thiên Vận]
禮義法度者,應時而變者也。《莊子 • 天運》
【Dịch】Lễ nghĩa và phép tắc phải tuỳ thời mà thay đổi.

325. Lao nhi vô công, thân tắc hữu ương. [Trang Tử, Thiên Vận]
勞而無功,身必有殃。《莊子 • 天運》
【Dịch】Đã lao nhọc vô ích mà còn hại thân nữa.

326. Tuyệt thánh khí trí, nhi thiên hạ đại trị. [Trang Tử, Tại Hựu]
絕聖棄知,而天下大治。《莊子 • 在宥》
【Dịch】Hãy vất thánh bỏ trí, thiên hạ sẽ thịnh trị.

327. Tuyệt thánh khí trí, đại đạo nãi chỉ; trích ngọc hủy châu, tiểu đạo bất khởi; phần phù phá tỷ, nhi dân phác bỉ; phẫu đấu chiết hành, nhi dân bất tranh; đạn tàn thiên hạ chi thánh pháp, nhi dân thủy khả dữ luận nghị. [Trang Tử, Khư Khiếp]
絕聖棄知,大盜乃止;擿玉毀珠,小盜不起;焚符破璽,而民朴鄙;掊斗折衡,而民不爭;殫殘天下之聖法,而民始可與論議。《莊子 • 胠篋》
【Dịch】Vất thánh nhân bỏ trí tuệ, sẽ dứt bọn trộm lớn; ném ngọc đập châu, bọn trộm vặt sẽ không xuất hiện; đốt hổ phù đập ngọc tỷ, dân sẽ chất phác; phá cái đấu bẻ gãy cái cân, dân sẽ không tranh chấp; phế bỏ các phép tắc của thánh nhân áp đặt lên thiên hạ, mới có thể luận bàn với dân chúng.

328. Cố đức hữu sở trưởng, nhi hình hữu sở vong. Nhân bất vong kỳ sở vong, nhi vong kỳ sở bất vong, sở vị thành vong. [Trang Tử, Đức Sung Phù]
故德有所長,而形有所忘。人不忘其所忘,而忘其所不忘,此 謂誠忘。《莊子 • 德充符》
【Dịch】Cho nên khi đức của ai mà lớn, ngoại hình khiếm khuyết của hắn sẽ được người ta quên đi. Khi người ta không quên cái đáng quên (= ngoại hình) và quên cái không đáng quên (= đức), đó gọi là quên hết thật sự.

329. Vô lạc vô tri, thị chân lạc chân tri; cố vô sở bất lạc, vô sở bất tri, vô sở bất ưu, vô sở bất vi. [Liệt Tử, Trọng Ni]
無樂無知,是真樂真知;故無所不樂,無所不知,無所不憂,無所不為。《列子 • 仲尼》
【Dịch】Không vui và không biết mới là vui thật và biết thật; cho nên không gì mà không cảm thấy vui, không gì mà không biết, không gì mà không buồn, không gì mà không làm.

330. Sở quý thánh nhân chi trị, bất quý kỳ độc trị, quý kỳ năng dữ chúng cộng trị. [Doãn Văn Tử, quyển thượng]
所貴聖人之治,不貴其獨治,貴其能與眾共治。《尹文子 • 卷上》
【Dịch】[Đối với việc cai trị quốc gia] cần coi trọng cách cai trị của thánh nhân, không coi trọng cách cai trị của bản thân nhà vua, phải coi trọng cách cai trị trên cơ sở là sự hợp tác giữa cá nhân nhà vua với dân chúng.

331. Hữu lý nhi vô ích vu trị giả, quân tử phất ngôn; hữu năng nhi vô ích vu sự giả, quân tử phất vi. [Doãn Văn Tử, quyển thượng]
有理而無益于治者,君子弗言;有能而無益于事者,君子弗為。《尹文子 • 卷上》
【Dịch】Điều có lý nhưng không có ích cho việc trị nước thì bậc quân tử không nói ra; điều có thể làm nhưng chẳng ích lợi vào việc gì thì bậc quân tử không làm.

332. Quân, thiên hạ chi chí lý dã, liên vu hình vật diệc nhiên. [Liệt Tử, Thang Vấn]
均天下之至理也,連于形物亦然。《列子 • 湯問》
【Dịch】Quân bình là điều rất đúng đắn của thiên hạ, đối với sự vật hữu hình cũng đúng như thế.

333. Trị quốc giả nhược nậu điền, khử hại miêu giả nhi dĩ. [Hoài Nam Tử, Thuyết Sơn Huấn]
治國者若鎒田,去害苗者而已。《淮南子 • 說山訓》
【Dịch】Việc trị nước giống như việc trừ cỏ dại ở ruộng, chỉ cần trừ các thứ làm hại mạ và lúa non là được.

334. Thượng đa sự tắc hạ đa thái, thượng phiền nhiễu tắc hạ bất định, thượng đa cầu tắc hạ giao tranh. [Hoài Nam Tử, Chủ Thuật Huấn]
上多事則下多態,上煩擾則下不定,上多求則下交爭。《淮南子 • 主術訓》
【Dịch】Kẻ cai trị nếu sinh sự lắm điều, nhân dân có thái độ giả dối; kẻ cai trị nếu quấy nhiễu nhân dân, nhân dân không yên; kẻ cai trị nếu tham cầu, nhân dân cạnh tranh nhau.

335. Trị quốc thí nhược trương sắt, đại huyền căng, tắc tiểu huyền tuyệt hĩ. [Hoài Nam Tử, Mậu Xứng Huấn]
治國譬若張瑟,大弦緪,則小弦絕矣。《淮南子 • 繆稱訓》
【Dịch】Trị nước giống như lên dây đàn; dây lớn căng quá thì dây nhỏ đứt.

336. Thượng nhân thiên thời, hạ tận địa tài, trung dụng nhân tài. [Hoài Nam Tử, Chủ Thuật Huấn]
上因天時,下盡地財,中用人才。《淮南子 • 主術訓》
【Dịch】[Trị nước thì] trên phải dựa theo thiên thời, dưới phải lợi dụng tài vật của đất, giữa phải sử dụng nhân tài.

Lê Anh Minh dịch

CHÍNH TRỊ 政 治 – CHIẾN TRANH 戰 爭

281. Thiên hạ hữu đạo, khước tẩu mã dĩ phẩn. Thiên hạ vô đạo, nhung mã sinh vu giao. [Đạo Đức Kinh, chương 46]
天下有道,卻走馬以糞。天下無道,戎馬生于郊。《道德經 • 第四十六章》
【Dịch】Thiên hạ có Đạo thì tuấn mã bị đưa vào canh tác. Thiên hạ không Đạo thì ngựa chiến sinh sống ở biên cương.

282. Dân chi cơ, dĩ kỳ thượng thực thuế chi đa, thị dĩ cơ. [Đạo Đức Kinh, chương 75]
民之飢,以其上食稅之多,是以飢。《道德經 • 七十五章》
【Dịch】Dân đói. Bởi vì người trên thu thuế nhiều, nên dân mới đói.

283. Dĩ chính trị quốc. Dĩ kỳ dụng binh. Dĩ vô sự thủ thiên hạ. [Đạo Đức Kinh, chương 57]
以正治國,以奇用兵,以無事取天下。《道德經 • 第五十七章》
【Dịch】Lấy ngay thẳng để trị nước; lấy mưu trí để dùng binh; lấy vô sự để được thiên hạ.

284. Đại quốc giả, hạ lưu, thiên hạ chi tẫn dã, thiên hạ chi giao dã. Tẫn hằng dĩ tĩnh thắng mẫu. [Đạo Đức Kinh, chương 61]
大國者,下流,天下之牝也,天下之交也。牝恆以靜勝牡。《道德經.第六十一章》
【Dịch】Một quốc gia rộng lớn giống như vùng hạ lưu của một con sông; mang tính chất âm nhu (nữ tính) của thiên hạ; và là nơi thiên hạ giao hội. Nhờ bản chất tĩnh mà nữ thường thắng nam.

285. Phù từ dĩ chiến tắc thắng, dĩ thủ tắc cố. [Đạo Đức Kinh, chương 61]
夫慈,以戰則勝,以守則固。《道德經 • 第六十一章》
【Dịch】Lấy khoan từ để tranh đấu ắt sẽ thắng, để cố thủ ắt sẽ vững.

286. Dụng binh hữu ngôn, ngô bất cảm vi chủ, nhi vi khách. Bất cảm tiến thốn nhi thoái xích. Thị vị hành vô hành, nhương vô tý nhưng vô địch, chấp vô binh. Họa mạc đại ư khinh địch khinh địch cơ táng ngô bảo. Cố kháng binh tương gia, ai giả thắng hỹ. [Đạo Đức Kinh, chương 69]
用兵有言:吾不敢為主,而為客。不敢進寸而退尺。是謂行無行,攘無臂,扔無敵,執無兵。禍莫大於輕敵,輕敵幾喪吾寶。故抗兵相加,哀者勝矣。《道德經 • 第六十九章》
【Dịch】Dụng binh có câu: «Làm khách chớ không làm chủ. Lui một thước chớ không dám tiến một tấc.» Cho nên thánh nhân đi mà chẳng đi, xắn tay áo mà không dùng tay, bắt địch mà không đối địch, cầm binh khí mà không có binh khí. Không tai họa nào cho bằng khinh địch, khinh địch là gần mất mạng. Cho nên khi hai phe giao chiến, ai thương xót binh sĩ thì sẽ thắng.

287. Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu. [Đạo Đức Kinh, chương 5]
天地不仁,以萬物為芻狗。聖人不仁,以百姓為芻狗。《道德經 • 第五章》
【Dịch】Trời đất không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm. Thánh nhân không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm.

288. Dân bất úy tử, nại hà dĩ tử cụ chi? Nhược sử dân thường úy tử, nhi vi kỳ giả, ngô đắc chấp nhi sát chi, thục cảm. Thường hữu tư sát giả sát. Phù đại tư sát giả sát. Thị vị đại đại tượng trác. Phù đại đại tượng trác giả, hi hữu bất thương kỳ thủ hĩ. [Đạo Đức Kinh, chương 74]
民不畏死,奈何以死懼之?若使民常畏死,而為奇者,吾得執而殺之,孰敢?常有司殺者殺。夫代司殺者殺,是謂代大匠斲。夫代大匠斲者,希有不傷其手矣。《道德經 • 第七十四章》
【Dịch】Khi dân không sợ chết, sao lấy cái chết làm cho họ sợ được? Nếu ta khiến dân thường sợ chết, hễ ai phạm pháp thì ta có quyền bắt kẻ ấy giết đi. Như vậy, không ai dám phạm pháp nữa. [Trên trời] thường có vị Tư sát, được quyền giết người [phạm lỗi]. Nay ta lại thay ngài mà giết, thì có khác nào [thợ rởm] muốn đẽo gỗ thay thợ giỏi đâu? Muốn thay thợ giỏi mà đẽo gỗ, ắt khó tránh thương tật.

289. Phù vi thiên hạ giả, diệc hề dĩ dị hồ mục mã giả tai! Diệc khử kỳ hại mã giả nhi dĩ hĩ! [Trang Tử, Từ Vô Quỷ]
夫為天下者,亦奚以異乎牧馬者哉!亦去其害馬者而已矣。《莊子 • 徐無鬼》
【Dịch】Kẻ trị thiên hạ nào khác gì kẻ chăn ngựa! Chỉ cần trừ khử cái làm hại ngựa mà thôi.

290. Quân vi chính yên vật lỗ mãng, trị dân yên vật diệt liệt. [Trang Tử, Tắc Dương]
君為政焉勿鹵莽,治民焉勿滅裂。《莊子 • 則陽》
【Dịch】Ngài tham chính thì chớ lỗ mãng, cai trị dân thì chớ khinh suất.

291. Ngô nguyện khử quân chi lụy, trừ quân chi ưu, nhi độc dữ đạo du vu đại mạc chi quốc. [Trang Tử, Sơn Mộc]
吾愿去君之累,除君之憂,而獨與道游于大莫之國。《莊子 • 山木》
【Dịch】Tôi nguyện khử bỏ mối vướng bận của ngài, trừ đi cái ưu tư của ngài, để ngài một mình tiêu dao với Đạo trong cõi mênh mông tịch mịch.

292. Cổ chi súc thiên hạ giả, vô dục nhi thiên hạ túc, vô vi nhi vạn vật hoá, uyên tĩnh nhi bách tính định. [Trang Tử, Thiên Địa]
古之畜天下者,無欲而天下足,無為而萬物化,淵靜不百姓定。《莊子 • 天地》
【Dịch】Thời xưa, người nuôi dưỡng thiên hạ vô dục mà thiên hạ đầy đủ; vô vi mà thiên hạ biến hoá; yên lặng như vực sâu mà bách tính ổn định.

293. Hiếu tử bất du kỳ thân, trung thần bất siểm kỳ quân, thần tử chi thịnh dã. [Trang Tử, Thiên Địa]
孝子不諛其親,忠臣不諂其君,臣子之盛也。《莊子 • 天地》
【Dịch】Con hiếu không a dua cha mẹ, tôi trung không siểm nịnh vua, đó là điều tốt nhất của phận làm tôi và làm con.

294. Thiên địa tuy đại, kỳ hoá quân dã; vạn vật tuy đa, kỳ trị nhất dã; nhân tốt tuy chúng, kỳ chủ quân dã. Quân nguyên vu đức nhi thành vu thiên. [Trang Tử, Thiên Địa]
天地雖大其化均也;萬物雖多其治一也,人卒雖眾,其主君也。君原于德而成于天。《莊子 • 天地》
【Dịch】Trời đất tuy lớn nhưng trời đất chuyển hoá vạn vật một cách quân bình; vạn vật tuy nhiều nhưng chúng đều bị thống trị một cách thống nhất; dân chúng tuy đông nhưng chủ của họ là vua. Ông vua này đặt nền tảng nơi Đức và được hoàn thiện nơi Trời.

295. Bỉ dân hữu thường tính, chức nhi y, canh nhi thực, thị vị đồng đức. Nhất nhi bất đảng, mệnh viết thiên phóng. [Trang Tử, Mã Đề]
彼民有常性,織而衣,耕而食,是謂同德。一而不黨,命曰天放。《莊子 • 馬蹄》
【Dịch】Dân có bản tính bất biến. Họ tự dệt vải để mặc, tự cày cấy để ăn. Đức của họ giống nhau. Họ thống nhất, mà không kéo bè kết đảng. Đó gọi là tuân theo tự nhiên.

296. Minh vương chi trị, công cái thiên hạ nhi tự bất tự kỷ, hoá hoá vạn vật nhi dân phất thị. Hữu mạc cử danh, sử vật tự hỉ. [Trang Tử, Ứng Đế Vương]
明王之治,功蓋天下而似不自己,化貨萬物而民弗恃。有莫舉名,使物自喜。《莊子 • 應帝王》
【Dịch】Minh vương cai trị thiên hạ, công trạng bao trùm thiên hạ mà tựa như không nhận là công lao của mình; giáo hoá vạn vật nhưng dân chúng không cảm nhận sự nương tựa đó; tuy công trạng nhiều nhưng minh vương không kể công, khiến vạn vật ai cũng có niềm vui.

297. Nhữ du tâm vu đạm, hợp khí vu mạc, thuận vật tự nhiên nhi vô dung tư yên, nhi thiên hạ trị hĩ. [Trang Tử, Ứng Đế Vương]
汝游心于淡,合氣于漠,順物自然而無容私焉,而天下治矣。《莊子 • 應帝王》
【Dịch】Ngươi hãy để tâm an vui tự tại trong cõi hư vô tịch mịch; hãy giữ cho khí bình hoà yên tĩnh; hãy thuận theo sự tư nhiên của vạn vật và chớ có thành kiến riêng. Như vậy thiên hạ sẽ thịnh trị.

298. Lai thế bất khả đãi, vãng thế bất khả truy dã. Thiên hạ hữu đạo, thánh nhân thành yên; thiên hạ vô đạo, thánh nhân sinh yên. Phương kim chi thời, cận miễn hình yên! Phúc khinh hồ vũ, mạc chi tri tái; hoạ trọng hồ địa, mạc chi tri tỵ. Dĩ hồ, dĩ hồ! Lâm nhân dĩ đức. Đãi hồ, đãi hồ! Hoạ địa nhi xu. Mê dương mê dương, vô thương ngô hành. Ngô hành khích khúc, vô thương ngô túc. [Trang Tử, Nhân Gian Thế]
來世不可待,往世不可追也。天下有道,聖人成焉;天下無道,聖人生焉。方今之時,僅免刑焉!福輕乎羽,莫之知載;禍重乎地,莫之知避。已乎,已乎!臨人以德。殆乎,殆乎!畫地而趨。迷陽迷陽,無傷吾行。吾行郤曲,無傷吾足。《莊子 • 人間世》
【Dịch】Kỳ vọng chi ở đời sau, cứu vãn chi ở đời trước? Thiên hạ có đạo, thánh nhân thành tựu sự nghiệp; thiên hạ vô đạo, thánh nhân chỉ mong giữ được thân. Đời nay chỉ mong tránh được hình phạt. Phúc nhẹ như lông hồng mà không ai biết mang; hoạ nặng như đất mà không ai biết tránh. Thôi đi! Thôi đừng đem đạo đức đến với người đời! Nguy rồi! Nguy vì tự vẽ một vòng tròn trên mặt đất và chạy lẩn quẩn trong đó. Gai góc, gai góc! Ta đi, đừng làm ta đau. Đường ta đi khúc khuỷu, đừng làm chân ta đau!

299. Chí đức chi thế, bất thượng hiền, bất sử năng, thượng như tiêu chi, dân như dã lộc. Đoan chính nhi bất tri dĩ vi nghĩa, tương ái nhi bất tri dĩ vi nhân, thực nhi bất tri dĩ vi trung, đương nhi bất tri dĩ vi tín, xuẩn động nhi tương sử bất dĩ vi tứ. [Trang Tử, Thiên Địa]
至德之世,不尚賢,不使能,上如標枝,民如野鹿。端正而不知以為義,相愛而不知以為仁,實而不知以為忠,當而不知以為信,蠢動而相使不以為賜。《莊子 • 天地》
【Dịch】Thời chí đức người hiền không được quý trọng, tài năng họ không được dùng. Kẻ cai trị được xem như nhánh cây trên cao. Dân chúng như bầy nai hoang dã. Họ đoan chính mà không hề biết đó là nghĩa; họ thương yêu lẫn nhau mà không hề biết đó là nhân; họ thành thực mà không hề biết đó là trung; họ đảm đương việc mà không hề biết đó là tín; họ hành động chất phác và sử dụng lẫn nhau mà không hề biết đó là ban tặng.

300. Thiện tri xạ giả bất quý kỳ trúng, quý kỳ sở dĩ tất trúng dã; thiện tri lý quốc lý thân giả diệc bất quý kỳ tồn, quý kỳ sở dĩ tất tồn. [Liệt Tử, Thuyết Phù]
善知射者不貴其中,貴其所以必中也;善知理國理身者亦不貴其存,貴其所以必存。《列子 • 說符》
【Dịch】Người thiện xạ không quý sự bắn trúng mà quý lý do tại sao lại bắn trúng; người trị nước và tu thân cũng không quý sự tồn vong mà quý cái lý lẽ tại sao lại tồn vong.

301. Thiện trì thắng giả dĩ cường vi nhược. [Liệt Tử, Thuyết Phù]
善持勝者以強為弱.《列子 • 說符》
【Dịch】Người giỏi giữ gìn thắng lợi thì biết xem cái mạnh là cái yếu.

302. Trị quốc chi nan tại vu tri hiền nhi bất tại tự hiền. [Liệt Tử, Thuyết Phù]
治國之難在于知賢而不在自賢。《列子 • 說符》
【Dịch】Cái khó trong việc cai trị nước là ở chỗ nhận ra ai là người hiền trong dân chúng, chứ không phải ở chỗ người cai trị tự xem mình là người hiền.

303. Thần vị thường văn thân trị nhi quốc loạn giả dã, hựu vị thường văn thân loạn nhi quốc trị giả dã. [Liệt Tử, Thuyết Phù]
臣 未嘗聞身治而國亂者也,又未嘗聞身亂而國治者也。《列子 • 說符》
【Dịch】Hạ thần chưa từng nghe nói bản thân [vua] có tu dưỡng mà quốc gia lại loạn lạc, và cũng chưa từng nghe nói bản thân [vua] thác loạn mà quốc gia lại thịnh trị bao giờ.

304. Cẩu lợi vu dân, bất tất pháp cổ; cẩu chu vu sự, bất tất tuần cựu. [Hoài Nam Tử, Phạm Luận Huấn]
苟利于民,不必法古;苟周于事,不必循舊。《淮南子 • 氾論訓》
【Dịch】Nếu có lợi cho dân, thì không cần noi theo phép xưa; nếu sự việc phù hợp, thì không cần tuân theo lệ cũ.

305. Thượng cầu tài, thần tàn mộc; thượng cầu ngư, thần can cốc. [Hoài Nam Tử, Thuyết Sơn Huấn]
上求材,臣殘木;上求魚,臣干谷。《淮南子 • 說山訓》
【Dịch】Vua mong muốn gỗ thì thần dân tàn phá cây; vua mong muốn cá thì thần dân tát cạn sơn cốc.

306. Vô phúc sào, sát thai yểu. [Hoài Nam Tử, Thời Tắc Huấn]
毋覆巢,殺胎夭。《淮南子 • 時則訓》
【Dịch】Đừng lập úp tổ chim và đừng giết các thứ cầm thú sơ sinh.

307. Thủy trọc giả ngư nghiệm, lịnh hà giả dân loạn, thành tiễu giả tất băng, ngạn sanh giả tất đà. [Hoài Nam Tử, Mậu Xưng Huấn]
水濁者魚噞,令荷者民亂,城峭者必崩,岸崝者必陀。《淮南子 • 繆稱訓》
【Dịch】Nước đục, cá ắt ngoi lên mặt nước để thở; lệnh vua hà khắc, dân ắt nổi loạn; thành quách cao chót vót ắt đổ lở; bờ sông cao ắt sụp lở.

308. Khí loạn tắc trí hôn, trí hôn bất khả dĩ vi chính. [Hoài Nam Tử, Tề Tục Huấn]
氣亂則智昏,智昏不可為政。《淮南子 • 齊俗訓》
【Dịch】Khí loạn thì trí tuệ hôn ám, trí tuệ hôn ám thì không thể xử lý việc chính trị được.

309. Bệnh khốn nãi trọng lương y; thế loạn nhi quý trung trinh. [Bão Phác Tử, Quảng Thí]
病困乃重良醫;世亂而貴忠貞。《抱朴子 • 廣譬》
【Dịch】Bệnh tình nguy khốn mới quý trọng thầy thuốc giỏi; đời loạn mới quý trọng bầy tôi trung trinh.

310. Thát đa tắc thủy nhiễu, ưng chúng tắc điểu loạn. [Bão Phác Tử, Cật Bào]
獺多則魚擾,鷹眾則鳥亂。《抱朴子 • 詰鮑》
【Dịch】Rái cá nhiều, loài cá ắt hỗn loạn; chim ưng nhiều, loài chim ắt hỗn loạn.

311. Minh vương chi dụng binh dã, vi thiên hạ trừ hại, nhi dữ vạn dân cộng hưởng kỳ lợi. Dân chi vi dụng, do tử chi vi phụ, đệ chi vi huynh, uy chi sở gia, nhược băng sơn quyết đường, địch thục cảm đương! [Bão Phác Tử, Binh Lược]
明王之用兵也,為天下除害,而與萬民共享其利。民之為用,猶子之為父,弟之為兄,威之所加,若崩山決塘,敵孰敢當! 《抱朴子 • 兵略》
【Dịch】Minh vương dùng binh là để trừ tai hoạ cho thiên hạ, và chung hưởng lợi ích với muôn dân. Do đó, khi vua sử dụng dân, dân giống như con phục vụ cho cha, em phục vụ cho anh. Uy lực quân đội gia tăng đến mức này có thể làm cho đổ lở núi, sụp bờ đê; địch quân có ai dám ra tay!

312. Tác tranh giả hung, bất tranh giả diệc vô thành công. [Thập Lục Kinh, Ngũ Chính]
作爭者凶,不爭者亦無成功。《十六經 • 五政》
【Dịch】Gây chiến tranh ắt phải có sự hung tàn nguy hiểm, [nhưng khi đang tiến hành chiến tranh] kẻ nào không đánh ắt sẽ không thành tựu sự nghiệp.

Lê Anh Minh dịch